Ánh Sáng Phật Pháp kỳ 05

ÁNH SÁNG PHẬT PHÁP 5
Chủ nhiệm: Thích Chân Tính
Giảng sư: Thích Nhật Từ
Khách mời: Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng
Dẫn chương trình: Thích Tâm Hoà
(Ngày 25/03/2007-mồng 07/02 Đinh Hợi)

Sơ nét về nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng:
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng sinh năm 1971, nguyên quán tại tỉnh Ninh Bình. Hiện tại, cô là một trong số rất ít người thành công trong lĩnh lực ngoại cảm. Với khả năng đặc biệt này, trong nhiều năm qua, cô đã cùng các tổ chức, cá nhân cũng như thân nhân của những người mất đi tìm hài cốt các liệt sĩ cũng như đồng bào đã mất trên khắp cả nước.

Phần giải đáp các thắc mắc của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng:
 Câu hỏi 1:  Chúng tôi biết hiện nay cô là một trong số rất ít những người có khả năng tìm mộ bằng ngoại cảm, đặc biệt là hình thức đối thoại trực tiếp với những vong hồn đã mất. Xin cô vui lòng cho biết cô đã phát hiện ra bản thân mình có khả năng ngoại cảm này trong trường hợp nào và khoảng thời gian nào?
Đáp: Nam Mô A Di Đà Phật!
Lời đầu tiên tôi xin gửi tới tất cả các chư Tăng, Ni, Phật tử lời chúc sức khoẻ và một lời cầu nguyện cho tất cả các linh hồn người thân của các vị được siêu sinh Tịnh Độ.
Tôi sinh ra ở một vùng quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ, đó là một vùng quê nghèo. Khả năng của tôi có từ năm 1989-năm đầu tiên tôi chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa đại học. Chính khả năng này đã là một trong những tác động làm tôi lỡ bước một năm vào đại học. Tôi phát hiện ra khả năng của bản thân mình bắt đầu từ ngày mồng 06/10/1989. Ngày đó là ngày giỗ bà nội của tôi. Trước đó gần một năm, tôi gặp tai nạn (chó dại cắn) và sau đó đã thập tử nhất sinh thậm chí là chết lâm sàng. Khi tỉnh lại, trạng thái trong cơ thể tôi có nhiều sự biến đổi không bình thường. Những hình ảnh, những âm thanh khác lạ, nó siêu thực cứ chập chờn lượn quanh. Đã có lúc tôi tưởng như mình bị thần kinh, hoang tưởng. Tôi đã kiểm chứng rất là nhiều. Những người trong gia đình cũng vậy, mọi người rất là hoang mang cứ nghĩ là sau cái di chứng của bệnh chó dại cắn thì hệ thần kinh của tôi đã bị thay đổi và tôi không phải là người bình thường. Trong quá trình đó, tôi vẫn nghĩ là cái điều mà mình nhìn thấy, mình cảm nhận thấy đó là do triệu chứng lâm sàng của những người bị bệnh hoang tưởng chứ không phải là dấu hiệu của một khả năng đặc biệt. Vì thế nên tôi đã đi khám nhiều bệnh viện. Những nơi nghe nói có thầy thuốc chữa giỏi tôi đều tìm đến để hỏi rõ cái căn nguyên tình trạng tôi hiện nay đang mắc phải là vì đâu. Khi đến tất cả các bệnh viện, câu trả lời nhận được là không phải bị tâm thần. Sau những kiểm tra rất là khắc khe và các cuộc thử nghiệm thì kết quả là trí não hoàn toàn bình thường. Thế thì tình trạng phát ngôn bừa bãi, nhìn thấy cái này, cái kia như vậy căn nguyên là do đâu? Chắc chắn là phải do phần âm. Rồi một loạt các mồ mả trong gia đình được chỉnh đốn nhằm mục đích là để cải thiện tình trạng thần kinh và tinh thần của tôi lúc ấy. Thế nhưng rất may, trong khi tất cả mọi việc đang được đưa vào để giám sát hết sức là chặt chẽ thì đúng thời điểm ngày giỗ của bà nội tôi đến. Kể từ ngày bà tôi mất, trong tâm nguyện của tôi lúc nào cũng rất là mong được nhìn thấy bà. Tôi luôn luôn ước nguyện sự ra đi của bà chỉ như là một giấc mơ và tôi hằng mong rằng lúc nào tỉnh giấc mơ trở lại thì tôi được thấy bà sống bình thường. Suy nghĩ ấy là suy nghĩ thường trực trong tôi kể từ ngày bà mất. Đến hôm giỗ bà, tôi lên bàn thờ thắp hương và sau khoảng 10 phút tập trung lên bàn thờ khấn bà những điều rất bình thường là phù hộ cho cháu mạnh khoẻ và điều quan trọng nhất là bà hãy phù hộ cho cháu trở lại bình thường để cháu lại được đi học. Trong lúc như vậy thì tôi nhìn thấy hình ảnh của bà nội. Lúc đầu, tôi tưởng mình hoa mắt, mấy lần tôi cứ dụi mắt, nhưng không phải. Bà tôi trong bức ảnh mặc áo dài, đeo chuỗi tràng hạt trông rất là sang trọng nhưng thực tế thì bà tôi là một người phụ nữ đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ. Bà hiện về với cái áo màu nâu mà lúc bà mất mẹ tôi đã may để liệm bà. Tôi bảo rằng rõ ràng không phải là hình ở trên bức ảnh mà hình ảnh tôi đang nhìn thấy là thật. Tiếp theo thì thấy bà bế hai người cháu ở hai bên thì tôi nghĩ là bà bế hai đứa trẻ. Tự nhiên tôi cất tiếng gọi: “Bà ơi” và quay lại nói với ông là: “Cháu thấy bà rồi.” Cả nhà kinh hoàng tức là nghĩ rằng chắc tôi nhớ bà quá nên tâm lý căng thẳng, chuẩn bị cơn bệnh dại lại tái phát và cả nhà trong tâm trạng hoảng hốt, có người đang ăn cơm liền đứng dậy để xem tôi nói gì. Tôi nhìn mọi người và nói: “Mọi người đừng mất bình tĩnh như vậy, cháu nhìn thấy bà đang bế một đứa trẻ tầm tám tháng tuổi và dắt một đứa trẻ khoảng ba tuổi trông mặt xinh lắm”. Lúc này, ông nội tôi đang đứng, đầu tiên là mặt ông tái đi sau đó ông sững sờ. Ông đến cầm tay tôi lay lay, hỏi tôi là: “Cháu có tỉnh không đấy?” Tôi bảo: “Cháu hoàn toàn tỉnh ông ạ”. Hai đứa trẻ tôi nhìn thấy đấy là hai người con của ông. Một người chết lúc 3 tuổi vào năm 1945. Một người chết lúc được 8 tháng tuổi. “Như vậy là cháu nhìn thấy bà thật” và ông quay lại nói với bố tôi: “Anh không nghi ngờ gì nữa, đây có lẽ là trời cho cháu cái lộc chứ không phải nó bị thần kinh gì đâu”. Khi đó, tâm trạng tôi rất là vui mừng nhưng tôi lại nghĩ rằng gia đình tôi rất là ưa lý sự và hay lập luận, nhất là bố tôi. Bố tôi đặt vấn đề bà nội là người thân yêu của tôi, cái ấn tượng về bà cùng tình cảm đối với bà đã tạo nên cái dư ảnh và tôi đã nhìn thấy. Bố tôi cũng là một người giỏi về vật lý, bố tôi bảo chính vì những điều đó nên tôi có một hình dung trong óc tôi như vậy. Sau khi cái lập luận của bố được đưa ra thì có vẻ rất là thuyết phục. Nhưng mà bản thân tôi thì tôi không nghĩ như vậy. Rõ ràng hình ảnh tôi nhìn thấy là một hình ảnh rất là sống động. Tôi nhìn thấy sự biểu cảm trên gương mặt của bà nội khi tôi nói là: “Bà hãy giúp cháu để chứng minh cho mọi người cháu là người bình thường và cháu được trở lại bình thường như ngày xưa” thì tôi thấy bà nhìn tôi với cái nhìn có vẻ xót xa nhưng đầy âu yếm, trìu mến. Cái ánh mắt ấy như là an ủi và tôi có nhìn thấy cái miệng bà nói nhưng lúc đấy tôi không nghe tiếng. Tôi chỉ nhìn thấy miệng bà có lắp bắp và hình dung là bà đang an ủi mình điều gì đó. Khi ông xác nhận đấy là hai đứa con của ông thì chắc là bà nghe thấy và bà đã nhoẻn miệng cười. Rõ ràng cái đấy không thể là ảo ảnh mà tôi tự hình dung ra được, đó là cái tôi nhìn thấy trước mắt. Sau đó tôi nghĩ khó mà thuyết phục được bố mình, tôi mới nghĩ cách, tôi bảo là ở trên bàn thờ mình còn nhìn thấy vậy thử ra mộ xem sao, chắc chắn là ra mộ sẽ nhìn thấy rõ ràng hơn. Nhưng thật ra việc ra mộ là tôi chọn hơi sai lầm và tôi đã bị ngất xỉu ngay tại chỗ khi những hình ảnh đầu tiên đập vào mắt. Nếu như ra nơi một mình bà nội nằm thôi và nơi đó rất là ít mộ thì tôi sẽ giữ được bình tĩnh hơn, nhưng tôi lại đi thẳng lên nghĩa địa của làng. Khi bước chân lên nghĩa địa, ở nơi đó một bên là chôn những mộ đã hoả táng, một bên là chôn những mộ mới. Khi tôi bước vào con đường giữa của hai khu đó, tôi bắt đầu thấy những hình ảnh, một bên là thấy toàn những bộ xương, một bên thấy là có rất nhiều người họ nằm, họ ngồi, họ đứng. Sau khi tôi nhìn thấy như thế thì tôi thét lên rồi ngất xỉu ngay tại con đường đi ra nghĩa địa. Một tháng sau đó, tôi không dám mon men ra nghĩa địa nữa, không dám nhìn, không dám ngó nghiêng gì cả. Khi tôi bình tĩnh trở lại, trấn an được tinh thần của mình thì tôi nghĩ tôi sẽ quay trở ra cái mộ của bà nội và chú (chính là người con của ông bị mất lúc ba tuổi). Mộ của chú lúc bấy giờ chỉ là một cái nấm đất thấp lè tè, chui trong một bụi tre rất là khó phát hiện. Ngày xưa, do chết hồi nhỏ nên các cụ quan niệm là để cho mau siêu thoát đầu thai sang kiếp khác nên các cụ không quan tâm lắm đến chuyện thờ cúng và mồ mả. Tôi đi ra mộ bà nội, lúc đấy là tôi khá bình thản. Khi ra cách mộ khoảng 6-7 mét, tôi đã thấy bà rồi. Trước đó, tôi thắp hương bàn thờ bà và nói: “Bà ơi, cháu đi ra thăm mộ của bà đây. Hôm trước, cháu nhìn thấy bà là thật thì hôm nay bà hãy cho cháu được thấy bà ở trên mộ.” Khi ra cách mộ còn 6-7 mét, tôi đã thấy bà tôi bước ra, tươi cười đón tôi nhưng hôm đó bà chỉ có một mình, không nhìn thấy hai người con kia nữa. Bà nói là  “Hôm nay cháu đến thăm nhà bà”, tôi cứ thấy cái miệng bà cười rồi bà chỉ chỉ, tôi hình dung ra câu nói của bà là như vậy. Rồi tôi trả lời lại rất là vô thức: “Vâng, cháu đến thăm nhà bà đây. Thế bác với chú đâu rồi?” Tôi thấy bà cười, bà lắc đầu, bà chỉ hai tay ra hai nơi. Tôi hiểu rằng có thể bà đang nói với tôi bác ở chỗ này, còn chú ở chỗ kia, vì bác thì mất mộ rồi. Lúc đó, tôi cầu xin ở mộ bà: “Cháu nhìn thấy bà nói nhưng cháu không nghe thấy, ước gì cháu được nghe nhỉ!”. Tôi cứ nói và cứ ước như thế thôi. Hai bà cháu chỉ gật gù và giao lưu với nhau bằng ánh mắt. Sau đó, tôi chạy từ mộ bà về, vừa chạy vừa nói: “Ông ơi! Cháu nhìn thấy bà thật đấy.” Mọi người rất là ngạc nhiên, không hiểu tại sao nó lại chạy ngoài đường và bảo là: “Không phải cháu bị điên, không phải cháu bị điên”, thế là hàng xóm quay ra nhìn. Khi hàng xóm họ hỏi là tại sao cháu lại nói như vậy thì tôi cũng lý giải là tôi nhìn thấy bà nội ở ngoài mộ. Khi ông tôi nghe thấy tiếng xôn xao, ông bảo rằng: “Cháu nhìn thấy bà nội, vậy bây giờ ông dẫn cháu ra chỗ mộ của chú xem cháu có nhìn thấy chú không?” Bởi vì chú là người tôi chưa hề biết mặt một lần nào. Chú mất lúc ba tuổi, khi ấy bố tôi cũng còn rất nhỏ, bố tôi mới có 6 tuổi thôi. Khi tôi ra mộ chú, tôi đã miêu tả tường tận cho ông là cháu nhìn thấy cái nồi tròn tròn ở trong ấy có một bộ xương với một cái đầu bé tí. Ông hỏi: “Sau đấy thì cháu nhìn thấy gì?”. Khoảnh khắc đầu tiên thì tôi nhìn thấy như vậy, sau đó thì tôi nhìn thấy một cậu bé chừng ba tuổi mặt trái xoan, mắt to và sáng, da trắng. Ông cũng xác nhận, ông tôi bảo người con thứ hai của ông khi sinh ra tướng mạo khác thường: da trắng, môi đỏ, mũi cao và mặt trái xoan, đẹp lắm. Các cụ thường nói là sinh ra như vậy xinh đẹp quá khó nuôi. Vào năm 1945, khi ấy chú lên ba tuổi, chú không phải là chết đói. Đến tháng 5 năm 1945, chú tự nhiên bị một cơn ho có lẽ là như bây giờ thì gọi là viêm phổi cấp tính và chú đã ra đi rất là nhẹ nhàng. Ông bảo là lúc chú ấy ra đi, khi bế trên tay rất là đầy đặn, bụi bẵm, trắng trẻo mà ông phải để một nửa ngày sau ông vẫn chưa dám làm gì cả vì ông nghĩ rằng con mình đang ngủ. Nhưng đến buổi chiều thì bắt đầu thấy tái dần, tái dần lại và người tím ngắt đi thì ông biết là chú đã chết thật. Ông mới đem chú đi chôn cất. Khi tôi tả lại thì ông khóc và ông tạ quay lại nói ơn Trời, ơn Phật, ơn tiên tổ là cháu tôi hoàn toàn bình thường, đây có lẽ Trời, Phật giao nhiệm vụ cho cháu để cháu làm một cái gì đó. Ngay khi đó thì tôi vẫn tiếp tục đi để kiểm chứng cái khả năng của mình bởi vì thật ra thì tôi cũng là một người tương đối là cứng đầu, cứng cổ. Bố tôi đã từng ở chiến trường chôn cất bao nhiêu đồng đội của mình nhưng mà cụ vẫn quan niệm theo như quan điểm chung của thời đại bấy giờ rằng chết là hết không gì nữa và tất cả những gì thuộc về người đã chết được đưa ra đều bị coi là mê tín dị đoan, là nhảm nhí. Rồi tất cả những cái việc ví dụ như nhìn thấy người chết hay gọi hồn bố tôi đều quy vào là đồng bóng và bố tôi không tin. Đến bây giờ thì việc quan trọng nhất đối với tôi là làm sao thuyết phục được bố mình, để bố mình tin là khả năng ấy là có thật. Khi ông cháu đi kiểm chứng thì bố đi công tác, không có ở nhà. Khi về thì bố tôi lại bảo rằng đấy là cái trò con trẻ, biết đâu trong lúc nào vô tình ông kể lại nó nghe. Thế là bố tôi vẫn chưa tin. Tôi chỉ còn một cách là tôi kéo bố đi, tôi bảo bố đi với con bố chịu khó nghe con một lần đi. Bố tôi lại rất là ngại vì lý do nếu bây giờ mà đi với tôi là vô hình dung giống như là nối giáo cho giặc, tiếp tay để tôi vẫn tiếp tục cái đà hoang tưởng. Thời gian cứ thế trôi đi, tôi vẫn sống trong cảnh nơm nớp lo sợ không biết mình bị gì. Sau đó, tôi mạnh dạn chạy sang hàng xóm, tôi hỏi han một số ông bà già có kinh nghiệm là các cụ thường hay đi xem bói thì thấy họ như thế nào. Người ta mới kể lại, tôi thấy là gần giống mình. Mấy lần rất là tình cờ thì tôi đi ra ngoài ruộng, tôi nhìn thấy ở dưới những luống lạc, luống đỗ, luống khoai có những người nằm ở đấy. Tôi mới gọi anh trai của tôi ra, thế là hai anh em tôi đã đào cuốc và anh em tôi đã cuốc khá nhiều những ngôi mộ như vậy lên. Cứ nhìn thấy có người nằm là cuốc, cuốc lên đào lên thấy ở dưới đấy có tiểu hoặc có quan tài. Sau khi thấy như vậy thì anh em tôi đắp lại. Nhưng cái việc đó thì bố không biết, mẹ không biết, ông nội cũng không biết. Hai đứa trẻ âm thầm đi làm với nhau. Anh tôi sinh năm 1969, hơn tôi 2 tuổi. Có một buổi đi làm như vậy thì xảy ra một việc không trong dự định. Ở ngay đám ruộng mà tiêu chuẩn giáo viên được chia để tăng gia thêm của mẹ, tôi có thấy một người đàn bà nằm dưới. Tôi bảo với anh là: “Anh ơi! Bây giờ anh em mình cuốc cái bà này lên.” Sau khi cuốc lên, chúng tôi thấy có một cái tiểu. Cách tiểu khoảng chừng hai mươi phân thì cảm nhận nóng như là mình sờ lên cái trỏ xôi. Khi anh tôi vừa đạp chân xuống, anh tôi phải nhảy phắt lên bờ: “Nóng quá em ơi, hay là có rắn.” Tôi bảo anh cứ cuốc nữa thử xem. Càng cuốc xuống dưới thì càng nóng, nóng cho đến lúc chạm mặt tiểu thì nó rất là nóng, hơi nóng lan toả ra xung quanh nhưng chỉ nóng ở mặt đất chứ lên không khí thì lại không nóng. Hai anh em tôi rất liều, lật những viên gạch đó lên. Khi lật các viên gạch đó lên thì ở trong tiểu có một bộ xương nguyên vẹn màu đen đúng như nhựa đường. Tôi rất là liều lĩnh, tôi thò tay xuống cầm nhấc lên. Khi nhấc lên thì nhấc toàn bộ như nhấc một bức tượng lên chứ không là từng cái xương rời ra. Sau đó, tôi bảo: “Anh ơi! Sao lại thế này?” Thế là anh em thả xuống, sợ quá lấp lại. Trong lúc thò tay xuống nhấc thì không may ngón tay cái tôi bị vào hàm răng của bộ hài cốt. Lúc lôi tay ra nó cứ mắc lại, thế là tôi hoảng hốt, tôi vứt bịch bộ xương xuống cái tiểu, không kịp đậy kín gạch lại. Hai anh em lấp rồi chạy về, người tôi cứ toát mồ hôi ra. Sau đó thì anh tôi về, anh tôi nằm sốt li bì không hiểu vì sợ hãi quá hay vì một lý do gì đấy. Anh tôi sốt 15 ngày liền chỉ uống nước thôi, không ăn được gì. Anh chỉ uống được một chút nước trái cây và cứ sốt, uống thuốc thì lại càng sốt cao hơn, chỉ có thể là đắp khăn mới đỡ. Đến ngày thứ 5, gia đình đứa đi khám. Tất cả những chuẩn đoán của bác sĩ , lúc thì nghi là viêm gan, lúc thì bảo là viêm thận hay viêm một cơ quan gì đấy trong cơ thể nhưng mà tất cả các xét nghiệm thì cho thấy không có vấn đề gì cả. Thậm chí khi xét nghiệm máu, kết quả cho thấy bạch cầu vẫn bình thường chứng tỏ là không bị viêm nhiễm. Ông về, ông mới kiểm soát, ông mới nói: “Các cháu có trót nghịch ngợm đền miễu gì không?” Bây giờ, tất cả những cái về y học thì bó tay rồi, lại quay sang vấn đề tâm linh. Quanh đi quẩn lại thì vẫn là có bệnh thì vái tứ phương. Ông hỏi: “Bây giờ, cháu kể cho ông nghe cháu đã làm gì ở chỗ nào, nếu cháu không nói là anh cháu chết.” Tôi mới sợ quá, tôi đã kiểm soát lại và tôi bảo là: “Cháu có làm hai việc. Thứ nhất là có cái miếu bà cô tức là miếu công chúa, cháu thấy cái đôi hài đẹp thế là cháu nhặt, cháu thả xuống sông làm thuyền (Ông đã ra cúng miếu công chúa nhưng anh tôi vẫn không khỏi). Việc thứ hai, anh em cháu có đào một ngôi mộ.” Tôi mới kể lại cho ông. Nghe xong, ông bảo: “Cháu đào phải mộ kết rồi, vậy mộ ở chỗ nào dẫn ông ra.” Lúc ấy, tôi sợ lắm, tôi chỉ sợ ra lại bị cắn lần nữa. Tôi mới nói ông là cháu sợ, cháu không ra. Ông liền nói là nếu không ra thì anh cháu sẽ chết mất, cháu phải dẫn ông ra. Tôi dẫn ông ra chỉ chỗ. Khi tôi ra, tôi nhìn thấy bà cụ đó đứng lên và vẻ mặt bà thì rất là giận dữ. Tôi sợ quá, tôi cứ nép sau lưng ông chỉ và thế là tôi quay đầu lại chạy về. Ông nói: “Về tôi sẽ chuẩn bị lễ ra đây lễ tạ ngôi mộ.” Lúc ấy, bố tôi vẫn kịch liệt phản đối nhưng giữa cái sống và cái chết của trai nên bố tôi chìu lòng, bố tôi đã tất cả mọi thứ để cùng với ông tôi ra mộ và quỳ lạy ở ngôi mộ đó: “Hai cháu trót dại xin cụ tha thứ.” Tôi cũng không hiểu là do sự tác động tâm lý hay vì một lý do nào đó mà khi mọi người ra lạy mộ xong quay trở về khoảng chừng 6 giờ chiều thì anh trai tôi ngồi dậy hỏi là: “Đi cúng về có xôi không cho con xin một miếng.” Cả nhà mừng quá, sau 17 ngày thì đến ngày thứ 17 bắt đầu đòi ăn. Anh ăn hết một nửa đĩa xôi gấc mà vừa nãy mới đi cúng ngoài mộ về. Sau đó, anh ấy ngồi dậy, mắt của anh nhìn mọi người hàm chứa lời cảm ơn. Hôm ấy có một cái chi tiết là sau khi lễ tạ xong, trên đường về nhà không biết bố tôi nghĩ thế nào, ông đã quay lại và trời thì đã tối rồi, một mình bố tôi lấy xẻng đắp cái mộ ấy lên thật to. Thật ra lúc ấy, đã trồng được một ít rau, một ít đỗ rồi, phá đi thì rất là tiếc nhưng bố tôi vẫn phá để lấy đất xung quanh đắp lên cái mộ rất là lớn cho bà cụ và thắp một bó hương lên xong rồi về. Bố bảo khi cách mộ khoảng 15 mét thì bó hương bùng lên cháy. Thế là bố tôi cảm thấy yên tâm, khi về đến nhà thì thấy con trai đang ngồi xơi xôi. Từ đấy cái quan niệm trong bố tôi bắt đầu thay đổi và cái lập trường của ông bắt đầu bị lung lay. Bố tôi bị thuyết phục dần dần bởi những cái gì mà tôi nhìn thấy và tôi nói ra. Cho đến cái ngày khả năng đấy được công nhận một cách hoàn toàn đó chính là ngày tôi tìm thấy mộ của ông tổ. Gia đình tôi vốn là rất trân trọng về cái chuyện mồ mả tiên tổ. Ông nội tôi là người theo nho giáo nên cụ là một trong những người điển hình về nguyên tắc và đạo đức sống của người đồ nho ngày xưa. Năm nào, đến ngày giỗ hay ngày Tết, việc đầu tiên là đi thắp hương ngoài mộ sau đó về lau dọn bàn thờ. Nhà dù nghèo hay giàu, dù nhiều tiền hay ít tiền không quan trọng mà đối với ông ngày giỗ là ông rất đầy đủ, chu đáo và thành kính thắp hương cho những người đã khuất. Tôi có một cái ấn tượng là từ bé đến lớn tôi hay nhìn thấy ông nội khóc và khóc rất nhiều lần. Hồi tôi chín, mười tuổi tôi vẫn hình dung là cả nhà tôi nào cuốc, xẻng năm nào cũng đi đào, cũng đi bới, cũng đi tìm. Ông nội tôi mỗi lần đi tìm về thì nỗi thất vọng càng tăng lên. Họ hàng tôi bị mất mộ của cụ, ngôi mộ ấy chính ông tôi là người chôn cất. Năm đó, đến ngày giỗ cụ, ông tôi lại khóc. Lúc đấy trong tôi hình thành một cái ý tưởng là tôi sẽ đi tìm mộ cụ. Đến ngày giỗ, khi mọi người chuẩn bị ăn cơm thì tôi bảo là cho cháu đi ra tìm mộ và tôi đã chạy ra khu vực ngày xưa gia đình vẫn đào bới tìm kiếm. Tôi nhìn thấy cụ của tôi đứng ngay giữa con đường đi. Khi nhìn thấy cụ thì tôi bảo là bây giờ đào, mà hai anh em thì không đủ sức và chúng tôi lại không thuyết phục được dòng họ ra bởi vì họ vẫn chưa tin lắm. Hai anh em tôi hì hục đào và có sự hỗ trợ của những người bảo vệ ở địa phương. Khi đào thấy mộ cụ, lúc ấy cả họ hàng, cả dân làng bị chinh phục hoàn toàn. Không ai nghĩ là trên một con đường hằng ngày người ta vẫn đi, cả hai làng cùng đi qua đi lại trên một con đường mà ở giữa con đường ấy lại có thể đào lên được một ngôi mộ nằm phía dưới. Vì sau thời cải cách, họ đắp lại đường. Khi đào xong ngôi mộ, ông tôi chạy ra với đầy đủ những cái tấm gỗ để ở bên trên có những cái khảm, những chữ ví dụ như một mặt là: “Ẩn thị quy nguyên” (30:15), một mặt là: “Vinh quy bái tổ”, đấy là những gì ông tôi đã đặt lên trên mộ cụ. Khi tìm thấy như vậy thì không còn gì thắc mắc nữa, đấy là một bằng chứng hùng hồn để chứng minh rằng khả năng này là hoàn toàn có thật và tôi hoàn toàn bình thường. Quá trình phát hiện khả năng của tôi là như vậy.

Câu hỏi 2:  Chúng tôi được biết cô có thể dùng khả năng ngoại cảm đặc biệt giúp cho mọi người, đặc biệt là những người có thân nhân đã mất mà không tìm được hài cốt. Cô và gia đình đã trải qua một thời gian khá dài chịu sự gièm pha chê cười thậm chí xa lánh của người xung quanh. Vậy tính đến nay bằng khả năng ngoại cảm cô đã giúp tìm ra được bao nhiêu hài cốt?  Trường hợp nào đã để lại cho cô nhiều kỉ niệm ấn tượng sâu sắc nhất trong những chuyến đi tìm hài cốt?
Đáp: Tính đến nay thì thời gian làm việc của tôi khoảng 17 năm. Trong 17 năm tìm mộ, những hài cốt được tìm thấy là bao nhiêu thì con số này không chính xác được. Trước đây thì tôi cũng có ghi chép lại, cũng chỉ ghi tên thôi. Ví dụ như ngày hôm nay đi làm cho những ai, được bao nhiêu ngôi mộ. Thường là tôi đánh dấu vào đấy, đánh dấu nhân. Thế còn hôm nào mà tìm thất bại thường cũng ghi lại tên và tôi đánh một dấu trừ. Năm 1996, tôi đã đánh dấu như vậy được trên hai nghìn trường hợp. Trên hai nghìn trường hợp đấy thì có 17 trường hợp là đánh dấu trừ có nghĩa là không thành công. Từ 1996 đến năm 1997 thì có một giai đoạn chuyển tiếp đó là khi tôi lập gia đình và sinh con đầu lòng, chính vì thế nên thời gian đấy tôi làm việc ít hơn và số lượng hài cốt tìm được giảm đi. Trong quá trình làm việc cũng có rất là nhiều những cái động cơ, những nguyên nhân và thậm chí có thể có những cái duyên nữa. Rất nhiều lần, nhiều lần lắm tôi đã cảm tự thấy mình quá mệt mỏi. Thời gian đầu tiên thì mệt mỏi bởi dư luận xã hội, bởi cái nhìn kỳ thị của những người xung quanh. Thật ra, tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình hoàn toàn bình thường, một gia đình trí thức nên không dễ chịu gì với cái việc là tự nhiên lại có một người con cứ dở âm dở dương. Điều đó là điều mà làm gia đình của tôi chịu nhiều áp lực vô cùng và kể cả những chị em của tôi. Chị gái tôi lúc ấy đang học ở trường y và chị ấy đã đem tất cả những kiến thực của mình học được về y học để phân tích về em gái mình. Nhiều khi chị tôi nói những câu là chị buồn, chị khổ lắm tại sao tự nhiên em lại như vậy. Thế rồi cả bố, cả mẹ cũng vậy. Cái áp lực mà gia đình phải chịu đựng hồi đó lớn vô cùng. Tôi chỉ có một người bạn, nói là bạn thì không đúng bởi vì đó là ông, ông tôi rất hiểu, ông là một người sống từ những thập niên 20-30, thời buổi mà những câu chuyện tâm linh người ta xem xét ở một góc độ khác chứ không phải như thập niên 50-60. Ông luôn luôn tin tưởng và ông luôn luôn giúp tôi tìm hiểu nguyên do, lý do vì sao. Một người nữa, không phải là chị ruột của tôi mà là con của một liệt sĩ, chị đấy cũng là người góp phần giúp tôi nhìn nhận đúng đắn về khả năng của mình, không đi lệch hướng. Đó là chị Phạm Thị Hơn, là con độc nhất của liệt sĩ Phạm Văn Nhiên. Tôi chơi với chị và chia sẻ với chị tất cả. Chị cũng là người giúp tôi ví dụ mỗi lần tôi đi công tác về là chị bảo: “Hôm nay, em đi đâu tỉnh nào? Em đã tìm được bao nhiêu người?” và chị ghi chép lại. Chị ghi tên lại và đánh dấu giúp tôi như vậy. Năm 1996 thì tôi vẫn tiếp tục làm, tôi còn đi miền Đông Nam Bộ, Bình Dương, Long An, đi ròng rã cả ngày trên sông Vàm Cỏ Đông để tìm liệt sĩ đã hy sinh ở hai bên bờ Vàm Cỏ Đông. Lúc ấy, tôi nghĩ đây sẽ lần cuối cùng tôi đi tìm liệt sĩ, sau đó về tôi sẽ tạm biệt công việc này và sẽ lập gia đình, yên ổn với cuộc sống gia đình. Bởi vì lúc đó bạn trai của tôi là sỹ quan quân đội công tác ở học viện hậu cần, cũng là một người rất có tâm trong việc về tâm linh nhưng bạn trai của tôi cũng ra cho tôi một điều kiện: “Anh thông cảm và hoàn toàn chia sẻ với em nhưng khi lấy nhau rồi em phải hứa là em không đi làm việc này nữa. Anh muốn có một cuộc sống bình yên.” Tôi đã hứa với người yêu như thế nên tôi định chuyến đi ấy là sẽ cái chuyến khoá chốt lại và con số trên hai nghìn nó sẽ khoanh lại ở đấy. Tôi cũng đã ngồi sắp xếp tỷ lệ và bảo là: “Trong hơn hai nghìn trường hợp (2567 trường hợp) mà có 17 trường hợp đánh dấu trừ có nghĩa là xác suất của mình cũng tương đối đấy chứ.” Tôi tạm thoả mãn với kết quả ấy và gác tất cả công việc lại để lo cho việc riêng. Cũng rất là may, cùng trong thời điểm đấy thì nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên xuất hiện, tôi chia sẻ bớt tất cả những khối lượng công việc sang cho anh Liên. Khi tôi sinh con trai đầu lòng, lúc cháu được gần hai tháng tuổi, có một cụ già 80 tuổi cụ đi ra Bắc tìm tôi và cụ nhờ tìm mộ cho con trai cụ là liệt sĩ. Với một lời từ chối khéo léo, tôi nói rằng: “Cháu đang nuôi con nhỏ, cụ cứ về đi khi nào con cháu khoảng một tuổi thì cháu sẽ giúp cụ.” Lúc đó, trong thời gian sinh, tôi vẫn chưa kiểm chứng lại khả năng của mình có còn hay không. Tôi trả lời cụ như vậy. Khi cụ ra cửa thì cụ buồn bã và cụ nói rằng: “Không biết là có sống được đến lúc con cô một tuổi không?” Bởi vì đó là con trai duy nhất của cụ. Tôi nghĩ rằng một cụ già đã đi từ trong miền Nam ra, 80 tuổi rồi mà khát vọng cuối cùng của cuộc đời là tìm thấy cái nắm xương tàn của người con đi chiến đấu đã hy sinh cớ sao mình lại có thể vô tình với cái nguyện vọng của cụ, đối với mình cảm thấy là nhỏ nhoi nhưng mà nó vô cùng lớn lao đối với cụ. Thế rồi tôi quyết định tôi gọi cụ quay lại và tôi thầm nhủ với lòng mình và nói con trai rằng: “Mẹ chỉ nốt lần này thôi con ạ.” Thế là tôi giúp cụ. Sau ba ngày bay trở vào Nam, cụ gọi điện từ Ngã Ba Long An ra cụ nói rằng cụ đã tìm thấy hài cốt của con trai và đã đào được hiện nay cụ đang chuẩn bị đưa con trai về quê. Tôi cũng chia sẻ với cụ niềm vui ấy nhưng mà tôi cũng nói luôn với cụ rằng sau khi cháu giúp cụ xong thì mấy ngày nay cháu bị mất sữa, con cháu không có sữa để bú. Ba ngày sau khi an táng con trai xong, cụ lại bay ra. Tôi vô cùng xúc động, tự tay cụ bê một kết sữa Ông Thọ, cụ mang lên nhà tôi ở trên tầng 2, cụ bảo là: “Ông gửi cho cháu để cháu uống cho con trai có sữa bú.” Không hiểu cái sự nhiệm mầu từ cái người liệt sĩ kia hay là sự nhiệm mầu từ tấm lòng của ông cụ mà truyền sang tôi, ngay tức khắc tự thân cụ bật hộp sữa đó ra và bảo với mẹ tôi tôi là: “Bà pha sữa cho cháu”. Mẹ tôi đã pha cho tôi một ly sữa nóng để uống. Trong khi uống bao nhiêu thuốc của viện Bà Mẹ Và Trẻ Em, uống thuốc Bắc, thuốc Tây thì chả thấy gì cả nhưng khi sau uống xong cốc sữa của ông cụ mang ra, hai tiếng sau thì sữa về rất nhiều và con trai lại có sữa bú. Niềm vui đấy được nhân lên và tôi từ bỏ luôn cái ý định, tôi nghĩ là: “Chỉ có một cố gắng rất nhỏ của mình thôi mà ông cụ hơn 80 tuổi sức sống bừng trở lại trên gương mặt già nua, khổ sở kia thì tại sao mình lại không làm nhỉ.” Cho nên tôi lại nhủ thầm là khi nào con lớn sẽ tiếp tục làm. Đến khi con tôi 4 tháng rưỡi, tôi về quê ngoại vì tò mò muốn biết là bây giờ mình còn nhìn thấy nữa hay không. Ngoài cái việc đi ra ngoài nghĩa địa xem thử mình có còn nhìn thấy nữa hay không thì còn có một chú đó mẹ chú mất tích lâu năm rồi, tôi bảo là: “Chú về quê, chú đi với cháu tìm nhưng một là được, một là thua, có thể là cháu hết khả năng rồi thì cứ đi xem có nhìn thấy bà không.” Trước khi tôi sinh con, tôi đã vẽ cho chú sơ đồ của vùng núi ấy để đi tìm rồi nhưng hôm đó tôi đi trực tiếp với chú. Khi đi qua nghĩa địa để đến cái hang núi có mẹ chú nằm theo như lời của bà cụ nói, nghĩa địa ấy khi tôi đi đến thì tôi nhận ra có lần tôi đã đến, tôi nói nôm na là gặp người quen tức là những người âm mà tôi đã tìm thấy họ thì họ cười, họ ra họ vẫy tay chào. Mọi người thấy tôi cứ giơ tay vẫy chào, nếu như chưa bao giờ biết thì tưởng là mình bị làm sao đi ra khoảng không mà cứ vẫy tay như thế này nhưng thật ra là tôi đã gặp những người mà tôi đã tìm thấy. Nhìn thấy như vậy thì tôi rất mừng, đứng lặng một lúc. Khi tôi đến hang, tôi nhìn thấy bà cụ, bà ra đón tôi rất là vui cười nhưng khi nhìn thấy hai người con trai xuất hiện thì bà quay mặt vào trong, bà không nói gì nữa và tôi hiểu bà cụ rất giận dữ, bà đã bỏ đi vì giận con. Sau đó, bà quay mặt, bà không tiếp. Tôi nói: “Cháu chỉ cần thấy như vậy là đạt yêu cầu rồi chứ bây giờ mà nói chuyện với cụ lại bị mất năng lượng nữa.” và thế là tôi quay về. Như vậy, tôi nung nấu ý định là tôi sẽ quay trở lại tôi làm việc tiếp. Đến việc của Giáo sư Trần Phương, khi ông đi tìm người em gái mãi không được. Lúc đó, tôi cũng không biết giáo sư là ai cả, tôi chỉ biết là có một chú hiệu phó đến nhà nhờ tôi giúp cho một người này. Khi đến, tôi rất là không hài lòng vì nhà gì mà bàn thờ, bát hương thì chẳng có, sau đó rất là đơn giản hỏi là bây giờ cần gì, muốn gọi hồn thì phải cần những gì. May mắn là trên đường đi tôi có bảo với anh lái xe là mua một ít vàng tiền để đem vào cho người mất và hỏi thăm về nhà ông này như thế nào thì anh chỉ bảo là hình như nhà này không có bát hương. Thật ra tôi đến nhà giáo sư không hề có một cái gì, lễ cũng không có nữa và tôi cũng chẳng cần biết người đang ngồi trước mặt mình là ai. Một tâm trạng hơi bị ức chế bởi vì sự chuẩn bị sơ sài đấy thể hiện sự thiếu tôn trọng, đấy là tôi suy diễn như vậy. Tôi nhìn giáo sư và tôi bảo là: “Bác không bàn thờ là hơi khó đấy bởi vì nếu như bác không thờ thì làm sao người âm người ta về với bác được nhưng thôi cháu thử cố gắng vậy.” Tôi lấy một cốc nước với mấy cái lễ tôi mang đến và thắp hương gọi cô em gái của bác lên. Rất may là trong hoàn cảnh gia đình tìm kiếm bao nhiêu ngày mà không thấy, có lẽ là cô cũng đang khát khao cháy bỏng cái việc được tìm thấy hài cốt mang về nên khi tôi vừa mới thắp hương, tôi khấn xong thì cô xuất hiện ngay. Tất cả những quá trình làm việc như thế nào thì Giáo sư đã ghi chép, tài liệu ấy rất nhiều người đã đọc và vừa rồi tờ báo An Ninh Thế Giới có đăng lại. Sau khi làm việc xong, tôi ra cầu thang, tôi đi về thì bác hỏi tôi là có biết bác là ai không. Tôi bảo cháu không biết. Sau đó, bác mới xưng: “Bác là Trần Phương nguyên là Phó Thủ tướng, hiện bác đang làm hiệu trưởng trường đại học Quản Lý Và Kinh Doanh Hà Nội, hôm nay bác đã bị thuyết phục hoàn toàn nhưng tao còn phải chờ xem đã, xem có tìm thấy em tao hay không. Nếu mà không tìm thấy em tao thì cũng chỉ là một trò nói láo.” Cụ nói thẳng luôn câu ấy nhưng tôi nhìn thấy ánh mắt và nụ cười rất là chân thành, tôi hiểu ngay câu nói ấy rất là thẳng thắn chứ không hề có ác ý gì cả. Tôi bảo: “Vâng, bác cứ cố gắng đi cháu sẽ ủng hộ và giúp đỡ bác đến cùng.” Bác mới nắm tay tôi, bác bảo: “Về trường bác nhé, cháu đừng ở quân đội nữa, bác sẽ tạo điều kiện cho cháu đi làm việc. Thật sự hôm nay cháu đã thay đổi cho bác 80% cái quan điểm về vấn đề của người âm.” Tôi cũng gật đầu với giáo sư và sau đó khoảng chừng bốn tháng sau khi tìm thấy em gái của giáo sư thì tôi về trường cộng tác với giáo sư để làm việc như một cán bộ bình thường của trường. Từ giai đoạn ấy trở đi, tôi lại làm và các dấu nhân lại được đánh dấu thêm. Cho đến hiện nay thì những dấu nhân đó đã lên đến trên 10 nghìn. Trong số trên 10 nghìn đấy thì có rất nhiều trường hợp có lẽ cái sự tìm gọi là tìm không chủ động tức là nhắn nhủ từ xa. Ví dụ tôi đi đến, tôi tìm một liệt sĩ nhưng mà liệt sĩ đó lại nói với tôi là ở điểm này, điểm kia thì có rất nhiều liệt sĩ đang nằm. Có những trường hợp các liệt sĩ cứ dẫn dắt tôi đi và nói rằng là cháu cứ đi đi, đi vào sâu trong đó và nhìn lên trên cây. Khi tôi đi vào thì tôi bị hấp dẫn bởi những bông hoa rừng và nhìn lên, tôi đã phát hiện ra một cái võng hoa nằm ở trên cây. Tôi bảo: “Các chú ơi! Có một cái võng hoa”, thì có một tiếng nói bên tai bảo là: “Võng thật chứ có phải võng hoa đâu.” Tôi nghe thấy thế thì tôi bảo các chú là thử vạch cái hoa ra xem đó là cái gì. Sau khi vạch hết lá cây ra thì phát hiện ra một cái võng và ở trên cái võng ấy là toàn bộ hài cốt của một người lính nằm nguyên trên ấy trong tư thế nằm ba lô chú gối trên đầu, một cái ghi đông ở tay trái, súng ở tay phải và bên dưới chân là một đôi giày, vẫn còn nguyên vẹn là một bộ xương khô trắng. Khi sờ lên trên ngực thì thấy có một cái miếng, chắc ngày xưa nó là một quyển sổ hay cái gì đó, có một miếng nilong và hiếm hoi lắm còn lại một chữ “Dũng” ở trên đó. Lúc đầu thì mọi người tưởng anh ấy tên là Dũng nhưng mà không phải, đấy là Yên Dũng-từ viết chỉ quê Yên Dũng ở Hà Bắc. Trường hợp ấy, chúng tôi hỏi liệt sĩ thì liệt sĩ mới nói là liệt sĩ bị sốt rét ác tính, mắc võng nằm trên cây, không hiểu là hoàn cảnh lúc đó như thế nào thì trong đêm có lệnh hành quân, lúc đó anh bị sốt, anh mê mệt đi nên là anh cứ nằm ở trên cây như vậy, đến khi đơn vị hành quân rồi thì phát hiện ra, bởi vì đi vào ban đêm nên không biết còn anh nằm lại. Như vậy, anh đã lịm đi và sau đó mưa rừng ập xuống thì anh đã hy sinh. Cứ như vậy con đường hành quân không có ai quay trở lại ấy nữa, chỉ có những người dân nhưng mà họ không để ý. Những năm chiến tranh, đường ấy chỉ có bộ đội đi thôi chứ chả ai đi cả, mãi sau này những người dân mới đi qua thì cây rừng ngày một lớn, nó cứ cao dần lên và cái võng cao tít lên trên đỉnh đầu. Khi cái võng lên cao như vậy thì đồng thời đưa hài cốt của người chiến sĩ ấy lên trên cao. Dây rừng nó cứ leo vào đấy và kỳ lạ lắm tự nhiên nó thành một dải hoa, cái dây dù buộc võng nó lặn sâu vào trong vỏ cây. Đấy là một hình ảnh mà tôi cảm thấy rất là xúc động nhưng mà cái điều xúc động hơn nữa là khi tôi về tôi mang lại cái lời nhắn gửi ấy cho bà mẹ của người chiến sĩ. Tôi về tôi gặp bà cụ và tôi nói như vậy. Bà cụ chỉ có một người con trai duy nhất hy sinh cho nên bà cụ nhìn và bà cụ tưởng tôi là con của người bộ đội ấy. Bà cụ ôm chầm lấy tôi và hỏi: “Tại sao bao nhiêu năm cháu không tìm về với bà? Không hiểu vì sao bà nhìn cháu giống thằng Dũng lắm. (anh cũng tên ở nhà là Dũng, tên thật là Việt, anh sinh ra ở quê Yên Dũng). Cháu ở đâu? Thế, bố cháu thế nào rồi? Nó cụt chân, cụt tay à? Nó mù mắt à? Hay nó bị thương ở đầu, nó không còn trí nhớ nữa nên nó không về được với mẹ?” Cụ cứ ôm lấy tôi, cụ khóc, cụ không để cho tôi truyền tải hết câu chuyện. Tôi cũng để cụ khóc cho thoải mái và mãi sau đấy thì tôi mới nói. Lúc ấy, rất khó mà giải thích cho cụ hiểu ngay được rằng là tôi nghe người chiến sĩ kia nói bằng tiếng nói của linh hồn chứ không phải người chiến sĩ kia còn sống và cũng không phải tôi là con. Tôi phải về nhà và lần thứ hai tôi quay lên thì tôi mới kể lại. Bà cụ lại thất vọng trong niềm vui, thất vọng vì tưởng rằng đây là giọt máu con trai mình để lại nhưng không phải, rồi cụ lại vui là vì đã kiếm được hài cốt của con trai mình. Thế rồi, tôi đã tình nguyện tự mình đi vào đem cái hài cốt đó về cho bà cụ. Tôi cũng là duy nhất ôm cái ảnh của cụ khi cụ mất, tôi cũng xin phép gia đình, xin phép mọi người là: “Bà không có con cháu gì cả, bà không có người thân bởi vì bà theo chồng đi hoạt động từ Quảng Ninh lên nên là bây giờ cho con được để tang cho bà cụ. Bởi vì bà cụ đã lầm tưởng rằng con là cháu nội của cụ thì hãy coi như vậy đi.” Tôi phải xin phép hai bên bố mẹ để tôi lên tôi để tang cho cụ, ôm cái di ảnh của cụ để tiễn cụ về nơi an nghỉ cuối cùng. Có lẽ độc giả đã đọc báo An Ninh Thế Giới thì đã biết về trận đánh KLắk. Có lẽ là trong cuộc đời đi tìm hài cốt liệt sĩ 17 năm nay thì cái việc đi tìm các liệt sĩ ở KLắk là ấn tượng sâu sắc và nhiều kỉ niệm nhất. Bởi vì ở đó không phải là tìm một người, xuất phát từ tìm một người mà thành ra tìm được rất nhiều người. Cho đến bây giờ, con số mà tôi tìm được ở KLắk từ năm 2002 cho đến bây giờ đã lên đến khoảng 300 người nhưng vẫn chưa hết bởi vì trong cái trận đánh đó chôn vùi xuống dưới núi rừng của KLắk ở huyện Kbang tỉnh Gia Lai là phải có hàng nghìn người. Nhưng tôi biết rằng khả năng của tôi và nguyện vọng của tôi chắc chắn rằng sẽ không đạt được 100% bởi vì qua nhiều năm cùng sự phân huỷ của thời gian thì hài cốt của các liệt sĩ đã lẫn hết vào trong đất rồi và hơn nữa đồng bào miền Bắc đi vào khai hoang làm kinh tế mới, xây dựng lâm trường, làm nhà ở, chuồng trại chăn nuôi trên những nơi chôn cất của các liệt sĩ. Đó là trận đánh vô cùng ác liệt trong đêm mồng 7-3-1965. Khi tôi tìm được liệt sĩ Phạm Văn Thành quê ở Nam Định thì có một kỉ niệm có lẽ là không bao giờ lặp lại nữa. Tôi tìm anh Thành ở dưới lòng hồ Đắk Lốp. Trước đây chôn ở ven bờ suối và sau này người ta chặn cái suối đó để xây đập thuỷ lợi, như vậy nước cứ dâng lên, ngày xưa là một con suối chứ giờ bây giờ là cả một hồ nước mênh mông. Sau rất nhiều tâm sức đổ vào đó thì đã lấy được 8 liệt sĩ ở dưới lòng hồ lên. Nhưng rất tiếc là khi tôi cắm vị trí xong, lúc khai quật hài cốt, tôi lại không có mặt vì tôi đang công tác ở nước ngoài, thứ tự bị nhầm lẫn tức là thứ tự 2 từ trên xuống và 2 từ dưới lên là có bị nhầm lẫn cho nên quá trình lấy hài cốt của anh Phạm Văn Thành đó về thì lại tính là thứ 2 từ trên xuống nên đã nhầm sang hài cốt của một người chiến sĩ khác, thế nhưng mọi người cứ nghĩ là hài cốt của anh Phạm Văn Thành. Liên lạc bằng điện thoại sang bên nước ngoài với tôi thì rất là khó khăn nên gia đình vẫn lấy về và làm cái lễ mai táng rất là long trọng bởi vì đấy là khát khao hơn hai mươi năm tìm kiếm. Nhưng sau ngày làm lễ xong, kể cả những cán bộ của huyện đội Kbang, kể cả những người đi đưa tiễn và kể cả bản thân người em ruột của liệt sĩ trong tâm trạng có một cái gì đó bồn chồn không yên, bình thường là khi tìm thấy thì thoải mái, vui vẻ, là yên tâm rồi. Khi tôi về Việt Nam, lần đầu tiên khi đặt chân xuống sân bay thì tôi thấy người em trai đấy ra đón và một người cựu chiến binh ở Tây Nguyên tiễn liệt sĩ ra miền Bắc, ông ở lại, ông chờ tôi về để lập kế hoạch tìm tiếp. Tôi nhìn thấy có một liệt sĩ khác không phải là anh Thành cùng đi ra sân bay và tôi biết ngay nhầm rồi. Linh cảm nhầm là ở bên Nga tôi đã cảm nhận được rồi nhưng vì ở quá xa nên tôi chỉ nói: “Anh thận trọng khi lấy thứ tự.” Khi về, tôi nhìn thấy, tôi đã nén lòng để không bật ra một tiếng khóc vì tôi thấy xót xa cho gia đình ấy quá, sau bao nhiêu năm chờ đợi bây giờ lại mang một người không phải là anh của mình về. Một tuần sau, tôi bàn với tất cả mọi người về sự việc đó và tìm ra quyết định để xử lý. Cũng trong thời gian ấy, linh cảm của gia đình ấy nhất là người em trai và một số người trong gia đình, có rất nhiều chuyện nó xảy ra. Người nhầm là bác Nguyễn Văn Tất quê ở Bình Định, bác ấy nói ngay: “Tôi là Nguyễn Văn Tất quê ở Bình Định, tự nhiên lại đem đến một mảnh đất Nam Định xa xôi, tôi chưa một lần đặt chân đến, tôi chỉ được thấy ở trên bản đồ thôi”. Thế thì tôi đã phải có một cuộc đàm phán riêng với liệt sĩ đó. Nghe đến thì vẻ hoang đường đúng không? Tại sao lại đàm phán với người âm? Thật ra tôi đã phải gọi cả anh Phạm Văn Thành và bác Nguyễn Văn Tất lên nói chuyện, bảo bây giờ cái sự nhầm lẫn thế đấy thì phải giải quyết như thế nào. Bác Tất nói: “Đã là bộ đội thì đâu cũng là quê hương, khi đặt chân đến nơi nào chiến đấu để giành giật lấy cuộc sống, lấy tự do cho nhân dân thì nơi đó là xứ sở của mình, tôi không có sự phân biệt nhưng… Tôi nói một chữ “nhưng” vì tôi còn vợ, còn con, còn những người thân trong gia đình. Họ sẽ đi tìm tôi như cậu đi tìm anh cậu, vậy cậu sẽ nghĩ sao khi tôi chiến đấu ở Tây Nguyên mà bây giờ hài cốt tôi nằm ở Nam Định?  Lý giải bằng cách nào đây? Và điều thứ hai là khi vợ con tôi vào Tây Nguyên tìm tôi biết đâu được lại nhận nhầm một cái hài cốt nào đó và đem về như cậu thì sao? Tôi và Thành không có vấn đề gì, chúng tôi có thể hy sinh cho nhau, chia sẻ xương máu cho nhau, chúng tôi không nề hà nhưng sự nhầm lẫn này chúng tôi cảm thấy không ổn bởi chính vì những người thân của mình. Và cậu có vui không khi mấy chục năm đi tìm anh mình và cuối cùng lại đem về một người khác? Bây giờ tôi nói lên cái vấn đề ấy, còn giải cái bài toán này như thế nào là việc của cậu.” Nên là chúng tôi lại phải bàn nhau, áp lực tâm lý rất là nặng nề. Mẹ của liệt sĩ 85 tuổi, bố của liệt sĩ 90 tuổi rồi, bây giờ vui mừng đón con về. Từ ngày đón bộ hài cốt đó về, hai ông bà vui vẻ và cảm giác như mình trẻ lại 10 tuổi, hai cụ khoẻ khoắn, ra tận nghĩa trang để đón con, thế rồi bao nhiêu giọt nước mắt của bà con, của người thân đổ xuống để khóc mừng vui khi đón liệt sĩ về, bây giờ lại trả lời lạnh lùng một câu “nhầm” thì sẽ giải thích làm sao đây. Anh em chúng tôi đã quyết định làm một cái việc xin lỗi hai liệt sĩ, xin lỗi các liệt sĩ ở nghĩa trang và xin hoạt động du kích. Chúng tôi âm thầm về lấy hài cốt của bác Tất đi đem trở lại Tây Nguyên, trao trả về đúng vị trí và lấy liệt sĩ Thành về. Thật ra bây giờ tất cả mọi công việc đã xong rồi và cái việc này nhằm cái mục đích rất là cao cả đó là lấy đúng liệt sĩ về đúng quê hương, đúng địa chỉ cho nên bây giờ là chúng tôi cũng không ngại gì chứ lúc đó chúng tôi giấu. Mặc dù vào cơ quan huyện đội, các đồng chí ở cơ quan huyện đội cũng có nói là nếu cần thiết thì chúng tôi sẽ giúp đỡ cho việc đổi lại nhưng lúc đấy mọi người không ai nói ra cứ gật đầu âm thầm biết như vậy thôi. Chúng tôi đã làm rất là bí mật. Trước khi đi thì liệt sĩ nói là: “Vì đảo lộn hài cốt như vậy nên không phải bây giờ lấy cái hài cốt tên  là Tất đã là Thành đâu, bởi vì đảo lộn từ xuống dưới cho nên nó cứ dịch đi một người, bây giờ cháu phải tìm đúng cái hòm gỗ và chữ Liệt sĩ Hưởng ở bên trong thì đấy mới là anh Thành. Hiện nay có cái giấy viết là Hưởng ở trong đấy.” Tôi phải viết thông tin ấy vào tờ giấy để vào trong ví, đi vào Tây Nguyên tìm. Khi đi tìm ở Tây Nguyên, sau hơn một tháng trời đưa 8 hài cốt ấy về, tất cả các cái mộ đã được quét vôi trắng tinh mộ nào cũng giống mộ nào, đều là bia chưa có tên. Cái nào là cái trong 7 cái mới đưa dưới hồ lên và điều quan trọng là cái nào ở dưới quan tài có tên là Hưởng đây. Hôm đó là một cái hôm có thể nói là tôi gần như mắc bệnh đau tim. Khi xác định là đây rồi, bác ấy chỉ là bác nằm đây, bác Tất cũng chỉ ở đây thì anh em chúng tôi mới bóc mộ đó ra. Giây phút kéo cái vách gỗ ra để xem bên trong ấy là cái gì thì không thể tả được. Khi mở ra, chúng tôi thấy một mảnh giấy có chữ Liệt sĩ Hưởng, ba bốn anh em chúng tôi vui sướng ôm chầm lấy nhau. Sau đó, chúng tôi đã phải kiềm nén cảm xúc, vội vàng ra cốp xe mang hài cốt của bác Tất vào trả về cái ngôi mộ ấy và đem hài cốt anh Thành trở ra. Khi đem trở ra thì trên đường đi, tất cả mọi chuyện như được sắp đặt sẵn. Lúc đến chợ mua hoa quả, tự nhiên bà hàng chợ bày sẵn ra một cái lễ rất là đầy đủ và hoa rất đẹp, người đó bảo là: “Tôi chuẩn bị để cài lên mộ liệt sĩ”. Chúng tôi liền hỏi: “Ai bảo bà là có liệt sĩ mà bà nói thế?” Bà ta trả lời là: “Tự nhiên tôi cảm thấy là như thế”. Xong cụ bảo là: “Có mấy liệt sĩ lên nói với tôi là chuẩn bị ít hoa cúc trắng” nên cụ đã chuẩn bị sẵn để đấy. Khi về đến Đông Hà-Quảng Trị cũng vậy, tự nhiên nhà hàng họ dọn cơm ra xong họ lại để thừa ra một cái bát, một đôi đũa. Đoàn thì chỉ có 3 người nhưng họ lại để 4 bộ. Khi được hỏi, người ta trả lời là: “Lỡ có ai đi theo các anh thì có bát đũa mà ăn.” Về đến quê hương của liệt sĩ, anh em chúng tôi đã quyết định chọn thời điểm nhá nhem tối để hoạt động bởi vì nghĩa địa rất gần với dân. Nếu như về giữa đêm thì người ta cũng phát hiện ra. Ngay buổi nhá nhem tối, anh em cho người vào đào trước để lấy cái tiểu cũ lên và chuẩn bị đưa hài cốt của anh Thành vào. Hài cốt của anh Thành lúc này được để ở trên ghế trước của xe và giả vờ phủ một cái áo lên. Khi cái huyệt vừa được đào xong, người em trai mới trèo từ dưới huyệt lên, chuẩn bị ra ôm hài cốt của anh mình đem vào. Câu chuyện này nghe ra thì cực kỳ hoang đường nếu không ai chứng kiến nhưng rất may hôm đó là năm người chứng kiến. Tự nhiên có một tia sáng màu xanh từ ghế ô tô khi cánh cửa vừa bật mở. Chỗ ô tô đỗ cách mộ khoảng 30 mét, tia sáng ấy chạy trong vòng 30 mét và lao thẳng xuống mộ. Chính bản thân tôi, tình huống đó tôi chưa gặp phải bao giờ, tôi cũng sợ nhưng nếu tôi sợ mà bỏ chạy nốt thì cái việc của mình nó bị dở dang nên tôi lấy lại bình tĩnh và tôi động viên mọi người là: “Tôi hiểu rằng liệt sĩ Phạm Văn Thành khao khát về quê hương quá sau mấy chục năm nằm ở Tây Nguyên. Từ năm 1965 đến năm 2002, 37 năm phải chờ đợi, 37 năm khát khao, 37 năm hy vọng được về với quê hương nhưng đến cuối cùng khi được về. Ngày về trống vang cờ mở, làm lễ truy điệu rất là đàng hoàng thì anh chỉ ngậm ngùi đi bên hài cốt của người đồng đội chứ anh vẫn chưa được về. Sau bao nhiêu trăn trở, sau bao nhiêu gian khổ thì anh mới đích thực được về quê hương nên anh ấy không đủ sự kiên trì để chờ đợi thêm nữa. Anh ấy đã chạy xuống mộ trước cả khi phần hài cốt của anh ấy được xuống.” Sau đó, anh em tôi thắp hương, hôm ấy khi thắp hương xong thì trời mưa, bát hương ở nghĩa trang bị ướt và bát hương ở trên mộ cũng ướt sũng. Buổi tối không dám thắp nhiều vì sợ người ta thấy, chúng tôi chỉ dám thắp 7 nén nhang nhưng khi 7 nén nhang đó cháy gần đến dưới bát thì nó cháy bùng thành ngọn lửa. Bát hương ở trên nghĩa trang nó cháy bùng to lên soi rõ từng ngọn cỏ một. Khi an táng xong, người em trai của anh Thành lên ô tô, chắc là khoảnh khắc đó anh Thành đã nhập vào anh. Anh ấy khóc xong anh ấy cười. Tôi sợ quá và nghĩ là hay vì quá căng thẳng sau mấy ngày đi thay đổi hài cốt thì anh bị hoảng loạn tâm thần. Mặt anh lúc ấy không hề bình thường một chút nào. Cái cười ấy như là cái cười của liệt sĩ mà lại còn rất nhiều nụ cười khác chứ không phải chỉ một người đấy. Anh lái xe sợ quá mới hỏi: “Anh bị làm sao đấy?” Anh trả lời là: “Sau 37 năm cho anh được khóc, được cười.” Khoảng 7 phút sau, anh ta trở lại trạng thái bình thường và chúng tôi ra về, chấm dứt cuộc hành trình 37 năm đi tìm kiếm người thân và cũng chấm dứt hành trình xa quê hương 37 năm của liệt sĩ Phạm Văn Thành. Sau đó, liệt sĩ Phạm Văn Thành đã giúp đỡ cho tôi tìm thấy được nhiều liệt sĩ khác đưa về quê hương.

Câu hỏi 3:  Chúng tôi được biết theo thống kê từ các đề tài nghiên cứu khả năng tìm mộ của trung tâm bộ môn cận tâm lý sự thành công của các nhà ngoại cảm chỉ đạt được 60%, như vậy 40% còn lại phụ thuộc yếu tố nào? Nếu như có người đến đặt yêu cầu tìm mộ. Vậy xin cô cho biết cụ thể 40% còn lại phụ thuộc vào yếu tố như thế nào để dẫn đến sự thành công của một quá trình tìm mộ?
Đáp: Xác suất và tỉ lệ khi đi tìm hài cốt thì tổng kết chung là 60-40%. Đấy là con số chung của nhiều nhà ngoại cảm cộng lại và chia lấy con số bình quân. Cụ thể ở từng nhà ngoại cảm thì xác suất đó từ 46% tức là có người tỷ lệ chính xác khoảng tầm 46%, có người trên 50%, có người trên 70% và có những người trên 80%. Như vậy cộng lại chia ra xác suất chung là 60%. Thật ra, chính bản thân tôi có những trường hợp tìm không được thì tôi cũng rất là trăn trở. Vào cái gian đoạn mà năng lực của tôi mạnh nhất là khoảng những năm 1993-1996, tôi nhiều khi rất tự hào bởi vì tôi chưa từng khuất phục trường hợp nào. Kể cả là xuống dưới nền miếu chùa ở dưới Non Nước, có cả một tảng đá to vĩ đại đè lên trên nhưng tôi vẫn quyết tâm cho khai quật. Tôi phải đấu tranh về tâm lý rất là căng thẳng. Hoặc thậm chí tại bờ sông Vĩnh Điện ở tỉnh Quảng Nam cũng vậy, mặc dù vừa mới lũ lụt miền Trung sau năm 1999, cát nó bồi lên khoảng chừng 4-5 mét nhưng tôi cũng quyết định đào và chắc chắn là sẽ thấy. Có những vụ vỡ đê ở Đông Anh (Hà Nội) cũng vậy, tôi đã tìm thấy nằm hài cốt sâu 6 mét. Đến ngày thứ ba đào bới rồi, những người trong gia đình này họ nói là: “Cô này nói thế nào ấy, đào đến 4-5 mét rồi mà chả thấy gì.” Khi họ bắt đầu nghi ngờ, tôi bảo là thôi cứ tiếp tục đào bới, cứ kiên trì. Khi đào xuống 6 mét thì mới thấy cái bia, có nghĩa là hài cốt còn sâu hơn dưới 6 mét bởi vì bị vỡ đê đất phù sa nó bồi lên rất là nhiều. Trước những năm 1996-1997, những cái không thấy chẳng qua là do họ chưa có điều kiện để đi tìm bởi vì có những gia đình liệt sĩ họ cũng khổ lắm, họ đến nhờ mình thế nhưng khả năng về mặt tài chính là không có, sự hỗ trợ của nhà nước chỉ ở mức độ nào thôi mà còn đi lại, đâu có phải một lần đã tìm thấy, có người phải đi lại vài lần nên họ chưa có phản hồi nên tôi mới đánh cái dấu trừ, có những người tìm không thấy thì họ cũng có phản hồi. Giai đoạn năm 1998-1999 thì cũng có nhiều trường không tìm thấy, biết vị trí sơ đồ là ở chỗ đấy nhưng cái sự thay đổi địa bàn nó đã quá lâu. Bộ môn cận tâm lý của tôi do Thiếu tướng Nguyễn Trung Phát làm chủ nhiệm, vừa rồi tổng kết năm 2006, đề tài của Thiếu tướng là: “Vì sao không thấy?” và xoáy vào 40% còn lại là không thấy. 40% này có một số yếu tố. Yếu tố chủ quan là ví dụ có một số liệt sĩ chết mất xác hoàn toàn, khi xác mất đi mà thông tin vẫn còn lưu lại, người ta vẫn có thể cung cấp những thông tin và các chiến sĩ cung cấp thông tin là đã từng nằm ở chỗ đấy nhưng hiện nay hài cốt không còn nữa có thể do sự phân huỷ của thời gian hoặc là bị bom bỏ, bị mất tích hoặc là có những hài cốt bị lũ lụt thiên tai cuốn đi mất. Năm 1995, tôi đã phải gặp một trường hợp như vậy, vừa mới cách đấy ba ngày còn đánh dấu ở chỗ đấy để sau ba ngày nữa quay trở lại đào. Ngày hôm sau có một cơn lũ về và mấy hôm sau quay trở lại chỉ còn mỗi cái võng dù bay phất phơ, hài cốt bị lũ cuốn mất bởi vì nằm sát bờ suối. Đấy là một trường hợp trong những trường hợp tôi rất là đau lòng, nếu như hôm đó cố gắng hơn một chút không sợ tối ở trong rừng đào lên ngay thì cái hài cốt của liệt sĩ ấy không mất. Còn nhiều những cái yếu tố khác nữa ví dụ như trong gia đình người ta, có rất ít người là có tâm nguyện đi tìm, số còn lại là bán tín bán nghi và không thật tâm. Một yếu tố nữa là có những người bảo rằng tôi muốn đi tìm mộ ông tôi, người thân của tôi vì là mất mộ cho nên là mấy năm nay tôi thấy làm ăn nó không suôn sẻ, con cháu trong gia đình gặp chuyện nọ chuyện kia. Tức là cái động cơ để đi tìm không phải xuất phát từ tình cảm, không phải xuất phát từ đạo lý hay là xuất phát từ bổn phận và trách nhiệm mà lại xuất phát từ cái việc thấy làm ăn không tốt thì phải đi tìm thôi. Giả sử làm ăn tốt liệu có tìm không? Chắc chắn khi người âm hiểu được điều đó thì người ta cũng lập luận như vậy, thế là người ta không cho tìm luôn. Cho nên, 40% này có thể 20% do người thân và 20% do nhà ngoại cảm. Các nhà ngoại cảm thì phụ thuộc cái yếu tố thời tiết, thứ hai nữa là sức khoẻ và một yếu tố vô cùng quan trọng nữa là tâm lý. Nếu như gặp phải thời tiết xấu quá: mưa gió, bão bùng… thì cũng không tìm được, bởi vì trời mưa gió thì nó ảnh hưởng đến sự giao lưu về thông tin và nó hay bị nhiễu. Thế giới người âm dày đặc, không phải là ta muốn gặp một người mà chỉ có một người ấy đâu, xung quanh cũng có rất nhiều người. Cái thứ hai nữa là về tâm lý và sức khoẻ của nhà ngoại cảm, khi mà sức khoẻ không được tốt thì họ sẽ dễ bị lệch lạc, có khi vì sự nài nỉ của người thân của những người bị mất mà các nhà ngoại cảm phải cả nể. Về tình cảm thì cả nể nhưng về khoa học nếu mà cả nể thì nhiều khi không phải là kết quả mà là hậu quả. Chính vì thế cho nên các nhà ngoại cảm bị miễn cưỡng làm trong điều kiện sức khoẻ của mình không được tốt, cái điện lúc bấy giờ nó yếu đi thì cái độ nhạy nó không còn nữa nên rất dễ nhầm lẫn. Còn một cái nữa là về tâm lý, có những gia đình khi họ đi tìm, trong số những người họ rất là thiện chí thì có một số người không thiện chí, họ cho rằng đấy là cái chuyện đồng bóng vớ vẩn, những cái trò của các nhà ngoại cảm này là lừa phỉnh, không có thật nên họ có những câu nói và những cái động thái làm chấn động đến tâm lý của nhà ngoại cảm. Bản thân tôi khi đi tìm ở trong Tây Nguyên cũng vậy, khi tôi xác định rằng các liệt sĩ nằm ở dưới hồ Đắk Lốp và tôi yêu cầu các chiến sĩ công binh là làm cách nào đấy để đưa tôi ra giữa hồ để tôi cắm vị trí đó. Người thân trong gia đình liệt sĩ đó buôn ngay một câu là: “Cứ chỉ đại xuống hồ một phát, hồ nước như kia nói có cái gì dưới đấy mà chả được, bởi vì một cái hồ nước vậy ai mà tháo ra được để chứng minh cô ấy nói có hài cốt ở dưới ấy là đúng”. Tôi nghe thấy lời nói ấy nhưng mà tôi kìm nén sự bực mình lại và tôi quay sang tôi nói rằng: “Em vì 8 người liệt sĩ đang nằm lạnh lẽo ở dưới hồ kia kìa, chứ anh đừng bẻ thước tiểu nhân mà đo lòng quân tử, em mong rằng có một ngày nào đấy em sẽ thuyết phục với địa phương xả hồ nước để lấy 8 hài cốt ấy lên, đó là câu trả lời, đấy là câu chứng minh cho việc ngày hôm nay, chứ còn bây giờ không tranh luận, tốt nhất là im lặng cho em làm việc.” Tôi nén cái sự bực tức lại để tôi nói câu đó mặc dù lúc đấy các nhà báo, các người cùng bộ môn đi cùng rất lo sợ bởi vì sự chấn động tâm lý sẽ làm tôi bị nhầm nhưng không tôi đã lấy cân bằng, tôi cương quyết ngay. Cho nên, có một số nhà ngoại cảm bị trong trường hợp như vậy, nghĩa là người ta đang tập trung mà bị một cái chấn động là người ta làm sai ngay. Hoặc có những trường hợp là do người âm đó cố tình lẫn tránh vì hờn dỗi với con cháu, vì không bằng lòng với con cháu. Cũng có những trường hợp thực ra là ông tổ đến 7-8 đời, các cụ đã siêu thoát lên cõi nào rồi, cái sự giao tiếp với linh hồn không được nữa, người thân thì vẫn cứ cố và sẽ có một cái vong nào đấy họ nhận đại. Người âm cũng không phải là toàn những người tốt cả đâu, tất nhiên con số ấy ít lắm. Họ cũng có cái ham muốn được chăm sóc, muốn được hương khói thì người ta nhận. Khi cứ khấn xin mãi thì người ta bảo tôi là người ấy đây, thế là người ta nhận vào chỗ ấy. Hoặc là có những đứa trẻ con nó nghịch ngợm, nó chỉ lung tung. Nhiều khi tôi cứ hay dùng trẻ con làm cái khoá mở, khi tìm bí quá rồi thì đi tìm cái mộ trẻ con nằm gần đấy hỏi là nó chỉ ngay. Nhưng cũng có những đứa nghịch ngợm, tính chất của nó vẫn là trẻ con, láu cá mà nên nó chỉ đại một người nào đấy hoặc nó chỉ đại một chỗ mà đào lên thì chẳng thấy gì. Cái 40% ấy có nhiều nguyên do và hiện nay đề tài của Thiếu tướng Nguyễn Trung Phát vẫn đang tiếp tục nghiên cứu về 40% còn lại này. Kỳ vọng một ngày nào không xa thì sẽ tìm ra cơ chế này tức là vì sao tìm được và vì sao không tìm được.

Phần giải đáp câu hỏi của Phật tử:
Hỏi: Má em chết năm nay đã 6 năm rồi, không biết má em có được siêu thoát hay không?
Đáp: Câu hỏi của em có lẽ cũng là câu hỏi chung của biết bao nhiêu người có người thân của mình đã mất và rất muốn biết là người thân của mình đã siêu thoát chưa, hiện đang như thế nào, đang ở đâu. Câu này chị có thể trả lời em là sự siêu thoát của má em đầu tiên là xuất phát từ cái tâm của những người còn sống. Tâm của em và những người thân của em là từ khi má mất luôn luôn cầu nguyện và luôn luôn hướng đến những cái việc làm tốt, những việc làm thiện, làm tất cả mọi việc cho má, cho cuộc đời bằng tâm trong sáng nhất của mình thì cái đó sẽ đẩy nhanh thời gian siêu thoát của má em. Thông thường cái thời gian siêu thoát giống như khái niệm về sinh tử, sinh có hạn tử bất kỳ, cái sự siêu thoát là bất kỳ, có thể người ta phát tâm tốt và người ta tu tốt thì siêu thoát sớm. Trả lời cụ thể cho là má em có siêu thoát được chưa thì chị sẽ trả lời em khi chị được tiếp xúc với linh hồn của má em. Nhiều người siêu thoát rồi nhưng người ta vẫn chưa biết là người ta ở tầng thứ mấy, người ta ở tầng nào. Có những người sau thời gian 49 ngày họ vẫn còn âu sầu, khổ sở lắm và họ vẫn còn thèm khát cuộc sống ở trên trần, những người như vậy thì cái sự siêu thoát của họ chậm. Bởi vì sao? Bởi vì khi họ về họ nhìn thấy người thân cứ thảm thiết, khóc thương nhiều quá rồi cứ làm những việc khiến cho người ta quyến luyến trần tục nhiều quá thì người ta rất là khó siêu thoát. Còn những người mà người thân trong gia đình xác định được và người ta làm những cái việc cho người mất, thứ nhất là sống và làm việc tốt hơn, làm theo những cái tâm nguyện của người đã khuất, làm những việc thiện, việc tốt thì người mất lúc đấy người ta thấy thanh thản lắm. Một trong những điều mà người mới chết cần nhất ở chúng ta là sau khi họ mất họ sợ nhất là chúng ta lãng quên họ và điều họ cũng sợ nhất là chúng ta quá đau buồn, chúng ta than khóc nhiều quá, chúng ta lễ lạt linh đình quá làm cho họ cảm thấy quyến luyến trần gian.

Vừa rồi là phần trình bày của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, tất cả chúng ta chắc có lẽ cũng sẽ cảm nhận được thông qua phần kể chuyện cũng như thông qua lời tường trình về những việc làm của cô trong suốt hơn 10 năm qua với số lượng tìm được hài cốt không phải là nhỏ trên 10 ngàn hài cốt. Kính thưa quý vị, trong những lần cô tiếp xúc, nghe, nhìn thấy những vong hồn, nói chuyện như vậy thì cũng có những vong hồn biểu lộ cảm xúc buồn giận khi mà tìm nhầm hoặc là họ vui sướng khi họ được tìm thấy hài cốt đưa trở về quê hương. Như vậy, nói chung vấn đề tâm lý và vấn đề huyết thống của vong hồn theo nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng thì hình như nó vẫn còn tồn tại. Và trong thời gian vừa qua, khi nghe tin cô Bích Hằng sẽ về thuyết trình tại chùa Hoằng Pháp thì chúng tôi nhận được rất nhiều thư và email từ các nơi gửi về, nội dung cũng liên quan đến lĩnh vực ngoại cảm, sự hiện hữu tồn tại của vong hồn. Chúng tôi cũng xin thỉnh Thầy Nhật Từ có đôi lời nhận xét về phần trình bày của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng.
Kính bạch Thầy! Vừa qua Thầy và đại chúng cũng đã được nghe phần trình bày rất là chân thành và cởi mở của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng. Vậy đứng từ góc nhìn của nhà Phật, xin Thầy hoan hỷ cho biết những quan điểm của Thầy về vấn đề mà nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng vừa trình bày. Chẳng hạn như là về vấn đề luân hồi, tái sanh, về vấn đề huyết thống còn tồn tại hay không sau khi vong hồn đã mất hay về vấn đề như là có nên cúng đốt vàng mã cho vong linh hay không khi nằm mơ thấy họ về đòi hỏi. Cũng có người hỏi về tâm lý của vong linh như thế nào. Phật giáo giải thích quan điểm về vấn đề nhập vong hay áp vong như thế nào?

Phần trình bày của Giảng sư Thích Nhật Từ:
Trước nhất, chân thành cảm ơn Thượng toạ Chân Tính đã dành cho Ánh Sáng Phật Pháp lần thứ 5 được lý giải hiện tượng ngoại cảm và mời nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng trở về đây để chia sẻ với tất cả chúng ta. Chúng ta cũng cảm ơn nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã trình bày về những nguyên do, điều kiện dẫn đến năng lực ngoại cảm đặc biệt của cô và hơn 10 ngàn tình huống đã được cô giúp để có thể tái hội tụ giữa người sống và kẻ mất trong thế giới vốn khổ đau của sanh ly và tử biệt. Chúng ta cũng được lắng nghe tất cả những sinh hoạt của cõi âm, tâm trạng cũng như đời sống của họ sau khi họ qua đời, có người 30 năm, có người 300 năm, có người có thể nhiều năm, nhiều kiếp hơn nữa. Trước nhất, chúng ta có thể thấy rằng ngoại cảm là một năng lực truyền thông đặc biệt hai chiều giữa người có năng lực này với người âm ở thế giới vô hình. Năng lực truyền thông đó không được sử dụng bằng các giác quan của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân như chúng ta nhìn thấy thế giới thông thường vì thế giới của cõi âm là thế giới vô hình. Năng lực ngoại cảm còn có thể giúp cho các nhà ngoại cảm cảm nhận được tần số tâm thức với các vùng cảm giác, tri giác, tâm tư, nhận thức của vong linh và đặc biệt cũng như những người còn sống về phương diện sắc diện liên hệ đến bệnh tật và tuổi thọ của họ. Nhà ngoại cảm cho chúng ta biết là khi phát hiện ra năng lực đặc biệt này thì nhiều người cho rằng đó là một người nửa âm nửa dương. Trên thực tế, theo nhà Phật thì đây là một con người có một vai trò rất quan trọng mang lại niềm hy vọng và hạnh phúc cho hàng ngàn gia đình vốn đang có những thao thức muốn biết được thân phận của thân bằng quyến thuộc của mình sau khi qua đời chết trong các cuộc chiến hoặc là do thiên tai sóng thần, động đất, hạn hán, lũ lụt, hoả hoạn hoặc là những cái chết bất đắc kỳ tử, những cái chết do tai nạn gây ra mà phần lớn những người chết chưa sẵn sàng về tâm lý chấp nhận cái chết diễn ra với mình như là một sự thật. Nhịp cầu đó giúp cho sự đoàn tụ của người sống và kẻ mất, mang lại hạnh phúc rất là lớn lao và ý nghĩa của nó không chỉ về phương diện xã hội mà nó còn là một nghi thức thực tập mang tính cách trị liệu và chuyển hoá rất lớn. Trong Phật giáo có đề cập đến khái niệm thần thông như là những năng lực đặc biệt mà sử dụng theo ngôn ngữ ngày nay một phần trong số đó được gọi và đồng nghĩa với ngoại cảm. Sáu phép thần thông được kinh Phật mô tả. Trước nhất là thiên nhãn thông tức là khả năng nhìn thấy thẩm thấu của con mắt, không lệ thuộc vào con mắt phàm. Trong khi đó, thiên nhĩ thông là năng lực nghe các âm thanh một cách rất là đặc biệt, không bị giới hạn bởi không gian vật lý hay là thời gian. Kế tiếp, chúng ta còn được biết đến; tha tâm thông là khả năng biết được suy nghĩ của người khác; thần cảnh thông (22:10) là năng lực kinh thân độn thổ, thần biến bằng nhiều hình dạng ở nơi này và nơi kia; túc mạng thông là năng lực nắm bắt được vận mệnh của con người từ đại cương đến chi tiết đã diễn ra trong thời quá khứ trên quy luật của nhân quả đối với bản thân mình và những người khác; cuối cùng là lậu tận thông tức là năng lực và tuệ giác nhìn thấy tất cả những nỗi khổ, niềm đau đã được nhổ ra khỏi gốc rễ của dòng cảm xúc nhận thức đời sống và sinh hoạt. Nếu chúng ta dựa vào học thuyết sáu thần thông như vừa nêu để làm cuộc so sánh nhỏ giữa năng lực ngoại cảm, chúng ta thấy rằng các nhà ngoại cảm có thể đạt được một vài phần ở trong các năng lực đặc biệt này. Bản chất của ngoại cảm liên hệ đến hai năng lực chính đó là nhìn thẩm thấu hay được gọi là thẩm thị và nghe một cách không giới hạn. Cái nhìn thẩm thấu đó nó có thể giúp cho các nhà ngoại cảm có thể nhìn xuống được lòng đất hoặc là đoán biết được, chỉ vẽ các sơ đồ ở một nơi rất xa có thể hàng trăm cây số mà người đó chưa hề đặt chân lên chỗ này và có thể mô tả một cách chính xác và chi tiết các sự kiện, các dữ liệu diễn ra trong quá khứ, có mặt trong hiện tại. Năng lực thẩm thấu bằng con mắt đặc biệt được các nhà khoa học gọi là con mắt thứ ba, được kinh điển nhà Phật gọi là thiên nhãn thông. Năng lực thứ hai mà các nhà ngoại cảm sử dụng đó là khả năng nghe một cách không giới hạn. Khả năng nghe của con người nó có thể bắt được các tần sóng âm phù hợp với ngôn ngữ, phong tục, tập quán nơi mình được sinh ra. Các luồng sóng âm khác với chủng loại của con người chúng ta có thể tiếp nhận được một mức độ rất đơn giản chẳng hạn các loại sóng âm của các loại động vật mà thông qua đó chúng ta có thể biết được các trạng thái cảm xúc buồn vui và các thông tin truyền thông với nhau của các loài này ở một mức độ tương đối. Nhà ngoại cảm có thể có khả năng nghe rất rõ những cuộc truyền thông giữa những người cõi âm và họ có thể có khả năng đối thoại trực tiếp với những người này. Do đó, họ có được một phần của thiên nhĩ thông. Dĩ nhiên nắm bắt được tâm trạng, những dòng cảm xúc như nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng vừa cho chúng ta biết thông qua các câu chuyện mà chị vừa kể thì cuộc đối thoại đó nó diễn ra với rất nhiều góc độ khác nhau. Nhà ngoại cảm đã nắm bắt được tần số tâm thức của các hương hồn đã qua đời và do đó mới có thể tạo ra một điểm hội tụ mà khoa học thường gọi là trường sinh học. Mức độ tập trung cao độ của nhà ngoại cảm bao gồm các yếu tố: tâm lý, sức khoẻ, thời tiết và lòng thành của thân bằng quyến thuộc còn sống có thể làm cho trường sinh học đó được hội tụ một cách rõ rệt hay là một cách mờ ảo. Năng lực tập trung về đời sống tinh thần cũng như tâm linh của nhà ngoại cảm càng cao thì điểm hội tụ của trường sinh học này sẽ càng lớn, giúp cho độ phán đoán về phương vị cũng như là nơi chôn các hài cốt của hương linh rất rõ, một cách không nhầm lẫn giữa những người có thể có tên trùng với nhau. Như vậy, nhà Phật gọi rằng nó như một năng lực của tha tâm thông. Ba năng lực này nó có thể xuất hiện một số ở những nhà ngoại cảm đặc sắc và nổi tiếng nhất trên thế giới. Có một số nhà ngoại cảm chỉ có năng lực nhìn thẩm thấu nhưng lại không có năng lực nghe thẩm thấu. Do đó, trong những cuộc đi tìm kiếm các hài cốt để xác định rằng là vong đó đã được siêu sanh hay là chưa, hoặc là có mặt ở phương vị nào trên mặt đất này thì có một số nhà ngoại cảm đã thành công vì đã có năng lực nhìn thẩm thấu đó. Một số nhà ngoại cảm không có năng lực nghe thẩm thấu và truyền thông thẩm thấu nên cái cơ hội truyền thông giữa người mất với người còn sống trong tình huống này có thể gặp một số sự trở ngại. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng có luôn cả hai năng lực này nên mức độ chuẩn xác và thành công của chị trên mười ngàn tình huống cho chúng ta thấy là một điều rất là đáng mừng. Chúng ta cũng nên thay mặt cho tất cả các gia đình nhất là các hương linh đã được tìm thấy xác đưa về nhà thờ hoặc là đưa đến các ngôi chùa tụng niệm, cầu siêu, bái sám để hồi hướng cho họ được siêu sanh thoát hoá là một điều phước báu rất lớn đối với họ. Bản chất của thiên nhãn thông như là sự hội tụ thấu kính có chức năng truyền đạt những thông tin, họ có thể nắm bắt sự kiện như là một máy chụp ảnh, máy quay phim ghi nhận các sự kiện xảy ra một cách khá chuẩn xác. Những người bị khiếm thị nếu biết tập trung năng lực và có sự hướng dẫn thì có thể phát ra được những năng lực ngoại cảm này, mức độ thành công của họ trong sự tập luyện có thể cao hơn những người bình thường. Theo Phật giáo, có các loại ngoại cảm khác nhau. Ngoại cảm bẩm sinh có mặt từ lúc con người còn trong bụng mẹ. Năng lực ngoại cảm của những nhà ngoại cảm bẩm sinh rất cao, thời gian tồn tại của năng lực đó có thể đến cuối cuộc đời của những nhà ngoại cảm này. Tại Ấn Độ, thời Phật, có rất nhiều nhà tiên tri, ngày xưa người ta dùng một cái từ là “nhà tiên tri”, chẳng hạn như là tiên tri A Tu Đà biết rất rõ về tướng trạng và tất cả những dự đoán của ông về cuộc đời của đức Phật là khá chuẩn xác và thành công. Loại ngoại cảm thứ hai là sau một biến cố bệnh lý liên hệ đến một chấn động rất mạnh tác động một cách tích cực đến vùng hải mã ở vỏ não và từ đó năng lực này nó làm khai thông và mở cửa được hết tất cả những nguồn tiềm năng rất lớn vốn có ở mỗi con người và các loài chúng sanh theo tinh thần của Phật dạy. Các nhà khoa học hiện đại cho ta biết bộ não của con người như là một máy siêu vi tính, nó là bộ máy vi tính lượng tử, chứa đựng tối thiểu từ 100 tỷ cho đến 200 tỷ nơron thần kinh. Mỗi một nơron thần kinh  như vậy có chức năng giữ các hạt giống của tri thức, tình cảm, nhận thức những hành động của con người, tạo ra những vùng nhớ và sử dụng khác nhau cho đời sống. Các nhà khoa học chỉ mới sử dụng được vài phần trăm khối lượng các nơron thần kinh đó. Những người bình thường như chúng ta thì việc khai thác và sử dụng còn ít hơn nữa. Nhà ngoại cảm sau một biến cố làm chấn động lớp vỏ não ở một tình thế đặc biệt nào đó đã làm cho họ thay hình đổi dạng mặc dầu vẫn là con người như bao nhiêu người khác nhưng năng lực nhìn thẩm thấu, nghe thẩm thấu, truyền thông thẩm thấu lại đặc biệt và cao hơn chúng ta. Đến độ trong khoảng một thời gian ngắn lúc đầu, như nhà ngoại cảm Bích Hằng vừa cho chúng ta biết, họ không tin rằng là mình có được năng lực đó. Trường hợp ngoại cảm do một biến cố có thể gọi là thập tử nhất sinh nó có thể tồn tại với con người là 10 năm, 20 năm, 30 năm hoặc có thể là suốt cuộc đời tuỳ theo đời sống tâm linh và các sinh hoạt tinh thần của nhà ngoại cảm đó. Nếu nhà ngoại cảm đó có một đời sống tinh thần vững trải như là những người xuất gia thì năng lực ngoại cảm này có thể sống mãi suốt cả cuộc đời. Và theo truyền thống tái sinh của nhà Phật thì người đó ở đời sau khi sanh ra lại tiếp tục duy trì được cái nguồn năng lực ngoại cảm đó cho nên họ có khả năng đặc biệt hơn những người khác. Tình huống tiếp theo là tình huống đào tạo và huấn luyện. Những nhà ngoại cảm được đào tạo và huấn luyện có thể học hỏi được một số năng lực truyền thông nhưng giá trị của những khả năng này nó có giới hạn nhất định. Nhà ngoại cảm học thì có thể cảm nhận được các sắc thái của con người và do đó có thể dự đoán được rằng là người này đang bị vương vào chứng bệnh nào, biểu lộ ra làm sao, chết một cách thế nào ở mức độ khá đơn giản mà không thể nào có được năng lực đặc biệt như là các nhà ngoại cảm bẩm sinh hay là nhà ngoại cảm trong một biến cố nào đó làm thay đổi cấu trúc của vỏ não dẫn đến những khả năng đặc biệt như vừa nêu. Các nhà ngoại cảm đã thực hiện sự truyền thông giữa họ và thế giới của cõi âm theo một phương thức hoặc là đặt trên nền tảng của âm thanh. Họ có được khả năng có thể thẩm thấu được các tầng sóng âm cao và thấp từ thượng giới, trung giới và hạ giới khác nhau và họ có thể tích tụ tất cả các loại sóng âm này giải mã nó một cách khá chuẩn xác về nội dung cũng như là những gì mà thế giới cõi âm họ đang gửi gắm cho thân bằng quyến thuộc của họ đang còn sống. Trường sinh học của con người sau khi qua đời không mất hẳn, nó như là bản chất của thế giới vật lý được bảo toàn bản chất năng lượng của nó. Các trường sinh học về sóng âm nó cũng lan toả ra và nhà ngoại cảm khi thiết lập được tần sóng âm một cách tương thích với các vong hồn thì họ có thể đọc được tâm trạng của các vong hồn này. Do đó, các vong hồn đó có thể gửi gắm những thông tin, những lời nhắn nhủ của họ cho thân bằng quyến thuộc. Chính vì vậy, sự truyền thông này phần lớn đặt trên nền tảng của truyền thông âm thanh. Vì đặt nền tảng trên truyền thông âm thanh nên một số nhà ngoại cảm khó có thể xác định được và hỗ trợ được cho các vong hồn chết ở trong bụng mẹ tức là thai nhi chưa chào đời, chưa có được tiếng nói hoặc là vừa mới có mặt do sự cố nào đó mà phải qua đời một cách tức tưởi thì luồng sóng âm tạo ra trường sinh học nó không rõ rệt. Do vậy rất là khó khăn để một nhà ngoại cảm có thể xác định được và giúp cho thân bằng quyến thuộc, hỗ trợ cho người mất đó được siêu sanh thoát hoá theo tinh thần Phật dạy. Trường hợp truyền thông này nó có thể liên hệ đến năng lực đối thoại. Nhà ngoại cảm Bích Hằng cho chúng ta biết là chị đã sử dụng năng lực vừa đối thoại vừa vấn thoại, tức là dựa vào một cuộc đối thoại với vong hồn mình có chủ đích đi tìm kiếm nhưng thỉnh thoảng chị cũng cho biết là chị tình cờ gặp các loại vong hồn khác vốn không hề nằm trong đối tượng đang tìm kiếm của chị. Những cuộc đối thoại đó đã được diễn ra và nhờ chị có được năng lực nói một cách rất là khéo, tạo ra một thiện cảm đặc biệt ở thế giới cõi âm cho nên khi tiếp xúc với chị vong hồn đó có thể trêu chọc, nói giỡn, nói không thật tình nhưng mà cuối cùng họ cũng đã thật lòng vì thấy được tấm lòng từ bi, tình thương đặc biệt của chị lúc làm công việc này để giúp cho thế giới cõi âm được siêu thoát cho nên họ đã hỗ trợ một cách rất là đắc lực và do đó kết quả của những cuộc tìm kiếm do chị thực hiện nó cao hơn so với các nhà ngoại cảm khác. Sự truyền thông ngoại cảm trong tình huống thứ hai nó liên hệ đến khả năng nhìn thẩm thấu. Các nhà ngoại cảm có khả năng nhìn thẩm thấu có thể nhìn thấy được tất cả các hình thù, vóc dáng mặc dầu thân thể vật lý, hình hài của người quá cố đó đã qua đời cách đây mấy mươi năm hoặc là vài trăm năm, xương có thể tan rã thành tro bụi, có nhiều người không còn một cái gì để nhận dạng nhưng năng lực thẩm thấu này với sự tập trung cao độ đã làm cho họ có thể hình dung được cái trường năng lượng sinh học của những vong linh đã qua đời đó để họ có thể xác định được cái phương vị người đó đang ở chỗ nào. Từ đó, nếu có sự phối hợp đặc biệt giữa các nhà ngoại cảm có năng lực nhìn thẩm thấu và những nhà ngoại cảm có năng lực nghe thẩm thấu, đối thoại và vấn thoại thẩm thấu thì kết quả của những sự tìm kiếm theo tinh thần Phật giáo nó sẽ cao gấp nhiều lần so với những hoạt động nỗ lực một cách đơn lẻ. Rất hiếm có được các nhà ngoại cảm có được hai năng lực như là nhà ngoại cảm Bích Hằng. Thế giới của cõi âm là một thế giới giống như xã hội của con người ở trên dương thế mặc dầu nó không có cấu trúc trật tự như chúng ta. Trên thế giới này nó có nhiều quốc gia, mỗi quốc gia có vua, tổng thống, thủ tướng hay là chủ tịch nước cai trị với những hệ thống luật pháp khác nhau. Thế giới của cõi âm nó không có ranh giới giữa các quốc gia mặc dầu người âm có thể xuất thân từ nhiều quốc tịch khác nhau nhưng khi họ qua đời họ trở thành những người mà đời sống của họ chỉ liên hệ đến dòng cảm xúc, tri giác, tâm tư và nhận thức. Thế giới vật lý đối với họ chỉ là những ảo giác được hình thành trong quá trình họ sống với những ấn tượng gì quan trọng nhất trong cuộc đời, khi qua đời các ấn tượng đó vẫn còn lưu giữ lại và nó tạo ra một cái trường sinh học. Chính nhờ vào sự hội tụ của trường sinh học đó mà các nhà ngoại cảm có thể tiếp nhận được và thấy được rằng vong hồn đó, xác chết đó mặc dầu áo quần nó không còn nữa nhưng họ nhìn bằng vóc dáng, màu sắc, hình thù y hệt như là hương hồn lúc còn sống. Chất liệu hội tụ của trường sinh học này là một trong cơ sở dữ liệu quan trọng để nhà ngoại cảm có thể giải mã và phán đoán một cách chính xác đối tượng mà họ đang tìm kiếm. Trong tình huống này, chúng ta thấy là các hương hồn có thể đã qua đời ở 3 tháng tuổi hay là 30 năm tuổi hoặc là 100 năm tuổi thì cái điểm hội tụ của trường sinh học tạo ra cho các nhà ngoại cảm nó cũng giống y hệt ngay cách thức hoặc là trước khi họ qua đời. Ví dụ là một bé gái chết 3 tháng tuổi thì các nhà ngoại cảm sẽ nhìn thấy hình thù của vong hồn đó dưới hình thức là 3 tháng tuổi, nếu là một người 30 tuổi cái chết đó đã diễn ra 300 năm hoặc là 3000 năm thì hình thù mà nhà ngoại cảm cảm nhận được phần lớn dựa theo cấu hình vật lý trước khi chết của vong hồn đó. Do đó, cái trường sinh học này nó hỗ trợ khác đặc biệt để nhà ngoại cảm dẫn đến sự phán đoán khá thành công. Tại sao có những khuynh hướng mà chúng ta thấy thân bằng quyến thuộc chưa siêu thoát của mình trở về nhà đòi chúng ta phải đốt giấy vàng mã hoặc là cúng kiến các loại phẩm vật khác nhau? Họ có thể than rằng là tôi đang khát sữa nếu các vong hồn đó là các bé trai, bé gái nhỏ cần sống trong sự chăm sóc của bầu sữa người mẹ. Hoặc là những cụ già có thể về báo mộng cho con cháu của mình biết rằng là cha mẹ thiếu quần áo, cơm không có cho nên phải cúng giấy vàng mã đốt xuống để giúp cho họ được siêu sanh. Tất cả những quan điểm đó theo Phật giáo là do vì khi còn sống các vong hồn này đã từng có những quan điểm sai lầm về thế giới của cõi âm, họ nghĩ rằng đây là cõi giới tồn tại một cách lâu dài hay là vĩnh hằng. Trong dân gian của người Trung Hoa thường nói là: “Sanh ký tử quy”, tức là “Sống gửi thác về”. Họ cho rằng thời gian có mặt trên dương giới chỉ vài mươi năm hoặc là trên 100 năm là cùng còn cảnh giới sống ở dưới âm phủ mới là lâu dài và do đó họ đầu tư hết tất cả. Những Kim Tự Thác nguy nga, tráng lệ của các vị Pharaông ở Ai Cập cũng do phát xuất từ quan điểm sai lầm về hai cảnh giới sự sống một bên là vĩnh hằng và một bên là tạm thời nên họ đã đầu tư rất nhiều cho thế giới của cái chết, thậm chí họ đem luôn cả người thân, người thương, người tình và gia tài, sự nghiệp, của cái, vật báu xuống ở dưới cõi âm để có thể hưởng thụ tiếp tục đời sống đó. Người Trung Hoa khi tiếp thu lại nền văn hoá này một cách tình cờ đã có những cải biên rất là tích cực. Thay vì chôn người thật, chôn ngọc ngà châu báu thật thì họ thể hiện các hình thù đó bằng những loại giấy vàng mã khác nhau. Giá trị gửi gắm tình thương cho mối quan hệ giữa người quá cố và người còn sống vẫn được duy trì. Trong nền văn hoá của châu Á, chăm sóc cho người quá cố có nghĩa là mang lại hạnh phúc cho những người đang còn ở dương thế, cái mối quan hệ tình thâm giữa người sống và kẻ mất không kết thúc khi người đó nhắm mắt lìa đời mà nó còn tiếp tục vài mươi năm hoặc là vài kiếp sau nữa. Chính vì vậy mà ảo giác sai lầm khi còn sống nó lại có một ảnh hưởng khá tiêu cực đối với thế giới của cõi âm. Những người không tin có đời sau cho rằng sau khi chết con người không còn gì cả, hình hài xác thân này trở về với cát bụi và thần thức với 4 loại hình của nó là: cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức sẽ không còn cò điều kiện để tồn tại và phát triển thì sau khi qua đời, với những quan điểm đó, họ sẽ không chuẩn bị sự tái sanh và họ có quan niệm cho rằng đây là dấu chấm cuối cùng trong đời sống của mình. Chính vì vậy mà có rất nhiều người suốt cả cuộc đời làm thiện, làm những điều phước báu, sống cho quê hương, cho xã tắc, làm những việc có ích cho cộng đồng và xã hội ấy thế mà họ không ra đi được vì họ không tin tưởng rằng có một cái thế giới tiếp tục trong tiến trình tái sanh tuỳ theo nghiệp lực. Các ách tắc trong tiến trình tái sanh đối với thế giới cõi âm liên hệ rất nhiều đến quan điểm khi họ còn sống. Phần lớn con người khi chết chưa chấp nhận được thái độ cái chết diễn ra như là một sự thật. Sự tiếc nuối đó đã mang lại một tâm lý hoàn toàn sợ hãi. Chính vì vậy mà chúng ta thường nghe những người xưa kể lại hoặc là các nhà ngoại cảm cho biết khi tiếp xúc được với họ nỗi khổ đau cùng cực với những giọt nước mắt sầu thương vì họ mong mỏi rằng cuộc sống này có thể kéo dài thêm nhiều năm nữa ấy thế mà cái chết đã đến với họ như một sự thật. Khi phủ nhận cái chết như một sự thật, các hương hồn này vất vưởng, bơ vơ, nay chỗ này mai chỗ kia, trở thành những vong hồn “hồn đơn phách chiếc”. Do đó, khi tìm kiếm để xác định thông qua sự đối thoại và vấn thoại với các hương linh để giúp cho họ có thể nương vào các nỗ lực của người còn sống, xác định rằng mình là một người đã chết để nhờ những thân bằng quyến thuộc còn sống hỗ trợ để cho mình được siêu sanh gặp rất nhiều khó khăn. Khi còn sống tâm lý của người sống như thế nào thì khi qua đời cái trạng thái tâm lý đó nó sẽ ám ảnh và có mặt với hương linh, tính khí của người còn sống như thế nào thì hương linh sẽ mang tính khí đó. Ví dụ khi còn sống người đó là một người rất là hài hước thì khi qua đời nếu tiếp xúc được với họ ta sẽ thấy tính cách hài hước và tiếu lâm của họ không thua gì lúc họ còn sống. Nếu là một người cau có, khó chịu, dễ hờn dỗi, tự ái, mặc cảm, sĩ diện, thành kiến thì khi qua đời các trạng thái tâm lý đó nếu không có sự trợ niệm, hỗ trợ đắc lực của những nhà tu hành và thân bằng quyến thuộc của họ thì cấu trúc tâm lý đó nó vẫn theo đuổi họ và làm cho họ khó có thể gặp được các nhà ngoại cảm mặc dầu các nhà ngoại cảm đang nỗ lực tìm kiếm để giúp đỡ họ. Trong các nguyên nhân mà nhà ngoại cảm vừa nêu ra cho chúng ta, 40% tình huống bị thất bại ngoài những yếu tố như vừa nêu nó còn có yếu tố là bản thân các hương linh đó không sẵn sàng chấp nhận sự hỗ trợ, sự trợ niệm và do đó họ cứ lẫn tránh, chính vì thế mà cái trường sinh học này nó trở nên rất là mờ ảo, khi tồn tại chỗ này khi hiện hữu chỗ khác và mức độ tập trung của nhà ngoại cảm rất là khó khăn để có thể nhận dạng phương vị của họ đang ở chỗ nào. Có những tình huống hương linh thì còn nhưng mà xác, cốt đã đưa đi một nơi khác, bản chất của các hương linh thường bám víu vào nơi mà cái chết diễn ra với họ. Ví dụ tại bãi chiến trường nơi mà cuộc chiến diễn ra với họ một cách khốc liệt (mưa bom, bão đạn) thì các hương hồn khi nằm xuống họ sẽ giữ chỗ đó và họ xem đó là cảnh giới sống của họ. Khi cốt của họ được chôn dưới lòng đất có nhiều hương linh lại không thể nhận dạng ra được rằng nó đang nằm ở đâu. Phần lớn có thể nhận dạng được nhưng thỉnh thoảng có một số hương linh không nhận dạng được. Hoặc là khi tro cốt của họ được đưa về nơi nào đó để thờ tự nhưng bản chất quyến luyến và không muốn chấp nhận cái chết như một sự thật làm cho họ phải đứng chờ chực ở ngay địa điểm cái chết diễn ra với họ. Chính vì vậy mà cuộc truy tìm thông qua năng lực của các nhà ngoại cảm đôi lúc nó có tình trạng là thành công với tỷ lệ khá cao nhưng đôi lúc cũng có những tình trạng không thành công như ý muốn. Từ quan điểm của Phật giáo, chết và sống chỉ là mỗi một cái dấu chấm trên một đường thẳng khá dài được kết nối bằng hàng nghìn, hàng triệu các dấu chấm khác nhau. Do đó, chúng ta không nên tin rằng sau khi chết là dấu chấm cuối cùng. Mỗi một đời sống sanh và tử dài mấy mươi năm chỉ là một dấu chấm. Khi tin như vậy, giả sử chúng ta qua đời nhờ niềm tin đó thì chúng ta hướng tâm về một đời sống tuỳ theo nghiệp nó dẫn dắt mình đi, có thể từ bỏ tất cả các quan điểm tiếc nuối, sợ hãi, chấp trước nhất là những tình cảm giữa vợ và chồng, thân thương như là cha con hay mẹ con, hoặc là tình thân hữu, nghĩa tri kỷ, tình đồng bào…tất cả những sợi dây tình cảm quyến luyến đó đối với thế giới của cõi âm là một sợi dây xích. Thể hiện tình thương càng nhiều chừng nào thì sự trói buộc trong tiến trình sanh tử sẽ diễn ra càng nhiều chừng đó. Mỗi một giọt nước mặt, mỗi một dòng cảm xúc sầu khổ và đau thương, mỗi một sự quyến luyến, bịn rịn của những người còn sống sẽ có thể làm cho người qua đời động lòng trắc ẩn, khó chịu và nhất là những người có tinh thần trách nhiệm mà vai trò, vị trí trụ cột kinh tế của gia đình nằm ở trên đôi vai của họ làm cho họ không an tâm để ra đi một cách vĩnh viễn. Do đó, chúng ta cần phải tin vào cái quy luật tâm lý khi còn sống nó sẽ ảnh hưởng khá nhiều đối với hương linh sau khi qua đời. Để có một tiến trình tái sanh tốt thì tất cả thân bằng quyến thuộc cần phải hỗ trợ một cách rất là đắc lực. Hỗ trợ thứ nhất liên hệ đến các quy luật mà bản chất của quy luật này có thể hỗ trợ cho hương linh tháo gỡ được sự chấp trước về cái tôi. Theo Phật giáo, cái tôi này được hình thành bởi năm tổ hợp: hình hài, cảm xúc, tri giác, tâm tư, nhận thức. Khi một hương linh qua đời thì năm thành phần đó chỉ còn lại hai: hình hài và ý thức. Hình hài và ý thức bị tách đi theo một hướng ly tâm vĩnh viễn, trong khi đó bản chất tâm thức của hương linh lại cố níu kéo vào cái hình hài, vóc dáng đó. Càng cố níu chừng nào thì tiến trình tồn tại dưới cảnh giới của cõi âm nó diễn ra một cách tỷ lệ thuận. Cho nên, tại sao có những tình huống người qua đời vài giây phút sau là đi tái sanh, có người phải mất đến 30 năm, có người mất 300 năm, thậm chí có nhiều người trải dài chục thế kỷ ấy thế mà họ vẫn chưa siêu sanh thoát hoá được, bởi vì họ còn tiếc nuối về cảm xúc, tình yêu, gia tài, sự nghiệp, các công trình, các dự án, các kế hoạch hoặc là tinh thần trách nhiệm làm cho họ không an tâm để mà ra đi. Trong các cuộc chiến, dù đứng từ bất kỳ một góc độ nào, ý thức hệ chính trị nào thì các hương linh sau khi qua đời đều trở thành nạn nhân của sự chấp trước về cảm xúc, tình cảm hoặc là bất kỳ một cái gì đó đối với những người còn sống. Trạng thái chấp trước này sẽ làm cho thế giới cõi âm kéo dài ra và nỗi khổ, niềm đau đối với họ rất lớn. Chính vì vậy mà trong kinh điển đức Phật thường gọi thế giới cõi âm là “ngạ quỷ”, “ngạ” là đói khát. Họ đói về vật thực, họ đói về cảm xúc, họ đói về tình thương, họ đói về cuộc sống, họ đói tất cả những gì mà họ đã từng có trong cuộc đời suốt một chiều dài của tiến trình sanh và tử. Sự đói khát về mọi phương diện đó đã làm cho họ trở thành các cô hồn vất vưởng trong thương đau. Trong các ngôi chùa của Phật giáo Bắc tông, vào lúc 16 giờ mỗi ngày, lễ cúng cô hồn thường được diễn ra trong một nghi thức quán tưởng và hành trì rất là long trọng. Sự quán tưởng và hành trì sẽ giúp cho người hành trì thiết lập được một tần số tâm thức, tần số tâm thức này có thể giao tiếp được với những trường sinh học của các hương linh và do đó các hương linh tiếp nhận được tần số tâm thức tương đương, có thể nghe được lời kinh tiếng kệ, cảm nhận được tất cả tấm lòng của những người còn sống đặc biệt là những vị xuất gia ở trong các ngôi chùa. Từ đó, các hương linh sẽ trở về bên các ngôi chùa, nương theo Pháp Phật nhiệm mầu để rũ bỏ sự chấp trước về phương diện cảm xúc, từ đó mới có thể nhẹ nhàng ra đi. Các lễ trai đàn thường tổ chức trong khuôn viên một ngôi chùa, nơi mà vùng từ trường của lòng từ bi và các giá trị trị liệu nó luôn toả ra xung quanh và do đó hội tụ các hương linh về trong một không gian tâm linh và lòng từ bi như vậy thì các hương hồn trong các cuộc chiến có thể là kẻ thù khi còn sống nhưng trở thành những người thân và giải bỏ hết tất cả các bế tắc thù hận với nhau trong cuộc đời, nhờ đó cơ hội có thể giải phóng kiếp cô hồn hay là ngạ quỷ ở dưới cõi âm dễ dàng được thực hiện. Hôm nay, khi chúng ta được lắng nghe nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng trình bày cuộc đời của chị và hơn mười ngàn tình huống đã được chị cứu giúp để có thể đoàn tụ được giữa người sống và kẻ chết, đó là một phước duyên rất là lớn. Chúng ta thấy đất nước Việt Nam với diện tích 320000km² ấy thế mà đã có trên 3 triệu người trong chiến tranh, trong số đó có 1 triệu người lính miền Bắc đã qua đời mà phân nửa (tức khoảng 500 ngàn người) chưa tìm được hài cốt. Khi chúng ta làm một bài toán, trung bình cứ mỗi một km² thì có 10 hài cốt, ấy thế mà dầu ngày nay tại Việt Nam số lượng các nhà ngoại cảm trên dưới 100 vị (được xem như số lượng lớn nhất trên thế giới) vẫn không thể nào giúp hết tất cả các hương hồn có thể đoàn tụ được với gia đình. Mong sao cho các nhà ngoại cảm có đủ sức khoẻ và nghị lực để vượt qua hết tất cả hạnh phúc của bản thân mình, hy sinh hạnh phúc gia đình mình để giúp phục vụ cho hạnh phúc của tha nhân và bá tánh. Đó là ta chỉ nói đến các cuộc chiến diễn ra tại Việt Nam, các hương hồn tại Việt Nam, ngoài ra chúng ta còn thấy là hàng triệu sinh linh từ lúc mà con người có mặt trên hành tinh này đã nằm xuống hàng ngày, hàng giờ, hàng phút. Có người thì tin vào nhân quả, nghiệp báo, luân hồi; có người thì không tin nên bị bế tắc về cảm xúc; có người bế tắc về hận thù; có người bế tắc về chấp trước; có người bế tắc về gia tài, sự nghiệp, địa vị, danh vọng và do đó họ tồn tại dưới cõi âm hàng ngàn năm, hàng trăm năm. Các nỗ lực của nhà ngoại cảm rất là cần thiết. Nếu có một sự phối hợp giữa các nhà ngoại cảm và các nhà tâm linh Phật giáo thì chúng tôi tin chắc là sau khi phát hiện ra một hài cốt nào đó, qua cuộc đối thoại trực tiếp giữa nhà ngoại cảm với các hương linh cho biết là họ chưa được siêu sanh thoát hoá, lúc bấy giờ phần còn lại là phần gia trì, hộ độ của các nhà Sư, các Sư cô, các vị Phật tử thì chúng ta sẽ giúp cho phần hồn của các hương linh nhẹ nhàng, thư thái ra đi trong sự an lành và hạnh phúc. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã giúp cho chúng ta biết thêm những kiến thức về thết giới của cõi âm và những kiến thức đó đã cho chúng ta thấy rất rõ các nỗ lực của nghi thức cầu siêu, trai đàn chẩn tế của những ngôi chùa Phật giáo Bắc tông từ hàng ngàn năm qua là có giá trị trị liệu và chuyển hoá rất lớn. Kính chúc tất cả các hương hồn khi nghe được sự trình bày của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, hãy hướng về ba ngôi báu và chùa Hoằnng Pháp-trung tâm tâm linh của Tịnh Độ tông, nơi mà niềm tin gia trì, hộ độ của đức Phật A Di Đà, của Bồ Tát Địa Tạng, của tất cả các vị Bồ Tát sẽ có thể hỗ trợ cho các hương linh được siêu sanh thoát hoá.
Nam Mô A Di Đà Phật, tác đại chứng minh.

Lời nhận định của Thượng tọa Thích Chân Tính:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Hôm nay tại chùa Hoằng Pháp có tổ chức chương trình Ánh Sáng Phật Pháp kỳ 5. Trong chương trình này thì chúng ta đã được nghe nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng nói về cái khả năng ngoại cảm cũng như quá trình đi tìm các hài cốt. Sau đó, thầy Thích Nhật Từ cũng đã có những lời nhận định theo quan điểm Phật giáo về vấn đề nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng. Theo chúng tôi thấy những lời nhận xét của thầy Nhật Từ rất là rõ ràng. Mong rằng trong tương lai, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng sẽ tiếp tục công việc này để giúp cho rất nhiều gia đình có những người thân bị mất mà chưa tìm được hài cốt. Cuối cùng, chúng tôi xin cầu chúc chư Tôn đức Tăng, Ni luôn pháp thể khinh an, chúng sinh dị độ, Phật sự viên thành và kính chúc đến toàn thể quý Phật tử cùng gia quyến luôn được an vui, hạnh phúc, vạn sự kiết tường, như ý.
Nam Mô A Di Đà Phật!

Lời của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng:
Nam Mô A Di Đà Phật!
Nhân đây, cũng xin gửi tới quý vị địa chỉ của hai văn phòng làm việc ở ngoài Hà Nội: 
1)                 Văn phòng của Liên Hiệp Khoa Học UIA: 01 Đông Tác, Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội (nơi đó chú Tổng giám đốc Vũ Thế Khanh là người đứng ra làm công tác nghiên cứu về tâm linh trong mười mấy năm qua)
2)                 Văn phòng 2: 211, nhà B19, khu tập thể Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội (đây là văn phòng của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng)
Nếu như quý vị có nhu cầu tìm người thân mất tích, xin gửi yêu cầu về địa chỉ của hai văn phòng đó.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bạch Y Thần Chú

Hình Ảnh Hồng Danh Của 88 Vị Phật Trong Sám Hối Văn