Ngũ Hành Sơn- Đà Nẵng
GS Kiêm Đạt
Vị trí:
Cách thành phố Đà Nẵng khoảng 7 km về phía đông nam, mọc lên giữa đồng bằng gần sát biển, một cụng năm hòn núi đá nhấp nhô, xa trông như một đàn voi khổng lồ chen chúc nhau nhào ra biển. Ngũ Hành Sơn nay Núi Non Nước là một địa danh được cả nưóc biết đến từ lâu, là môt trong những thắng cảnh đẹp nhất của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Cụm núi Ngũ Hành nằm trên một vùng đất rộng phẳng sát biển xanh, trên bãi cát vàng, hình thù kỳ dị với những ngọn lô nhô, cây cối um tùm mọc lên giữa các hốc đá, màu sắc núi thayb đổi theothời tiết, từ xám sang tím, từ tím sang xanh thẫm, đen. Giữa cảnh đất trời sông biển bao la nầy, Ngũ Hành Sơn xuất hiện từ thời xa, như những hòn đảo nổi giữa mây nước bồng bềnh, như bức tranh sơn thủy, xứng đánh sánh với Hạ Long, Phong Nha, Hà Tiên; đây cũng là cái đẹp độc đáp của hang động, đền chùa, thạch nhũ, thạch bích, của gió trăng lồng lộng qua cửa động, của ánh sáng huyền diệu thay đổi từng muà, từng ngày, từng giờ trên vách đá, khiến cho các tượng Phật, các hình đá thiên nhiên trở nên sinh động lạ thường.
Địa chất của Ngũ Hành Sơn
Ngũ Hành Sơn là một quần thể núi nằm trên bờ biển miền Trung Việt Nam, cho nên quá trình hình thành cũng như những đặc điểm hình thái chịu ảnh hưởng tất lớn giữa dãy Trường Sơn một bên, biển Nam Hải một bên. Về địa chất, Trường Sơn được hình thành sau đợt vận động tại núi phù hợp với thời gian "biển thoái" Hersini. Khối núi Trường Sơn Bắc nguyên là một màng biển sâu (Địa máng) tồn tại từ đầu thời đại Cổ Sinh, nổi lên ngay từ đợt vận động tại núi Hersini. Trường Sơn Bắc được bắt đầu từ cao nguyên Trấn Ninh (Lào), kéo dài theo hướng Tây bắc - Đông nam, ra tận biển, vàotận dãy Bạch Mã nối liền với đèo Hải Vân, tận cùng tại núi Sơn Trà và các hòn núi nhỏ ngoài vịnh Đà Nẵng.
Mạch núi Trường Sơn bắc chạy dài 753 cây số. Còn khối núi cao của Trường Sơn Nam là một cấu trúc Hersini, bắtđầu từ phía nam đèo Hải Vân trở đi, cho đến miền đông Nam Phần, từ vĩ tuyến 16 độ B cho đến vĩ tuyến 11 độ B. Chiều dài của Trường Sơn Nam là 512 cây số. Khối núi cao nguyên Trường Sơn Nam bao chiếm gần hết diện tích miền trung Trung Phần và miền cực nam Trung Phần.Quảng Nam - Đà Nẵng ở vùng phía bắc của Trường Sơn Nam, giáp với phần rìa của Trường Sơn Bắc. Trước kia, nơi đây là một vụng biển cắm sâu vào giữa hai khối núi, đá hoa cương A Tuất (2,500m) ở phía Bắc giáp với Thừa Thiên - Huế và núi Ngọc Linh (2598m) ở phía Nam, giáp với Kontum, như một cái nêm lớn ở giữa.
Vào giữa thời kỳ Tri - Át, thời đại Trung Sinh, cách đây khoảng hơn 200 triệu năm, có một cuộc vận động tạo núi mới, gọi là "Indonesy". Sau đợt vận động tạo núi nầy hầu hết lãnh thổ Việt Nam đều nổi lên trên mặt biển, ngoại trừ một số vịnh và vụng nhỏ, trong đó có vùng đồi núi sông Bung. Sau khi nước rút, do vận động nâng lên của Trường Sơn Nam, sông Thu Bồn và các sông nhánh khác của nó đã bồi lên một vùng đất rộng 540 km2, bao gồm cả vùng cửa sông Hội An, thu hẹp ở vùng Thăng Bình và mở rộng ra ở vùng Tam Kỳ rộng 510 km2.
Nhưng do bị kẹp giữa Trường Sơn và Biển Đông, các con sông nầy đều ngắn, cho nên quá trình bồi đắp những vụng biển lớn đã diễn ra rất chậm chạp, phải nhờ những cuộc vận động kiến tạo mới và địa hình lục địa, cho nên các đồng bằng ven biển miền Trung nói chung, Quảng Nam - Đà Nẵng nói riêng chỉ mới được hình thành rất gần đây, vào thời Đệ Tứ, cách đây khoảng 1 triệu 800 nghìn năm. Sự bồi đắp vẫn tiếp diễn, vào thế kỷ thứ IV và thứ V, con người vẫn chứng kiến sự hoạt động đó. các vùng biển bị lấp vẫn còn để lại những lạch nước chảy gần như liên tục, từ bắc xuống nam. Người ta vẫn nạo vét các lạch nước đó, để sử dụng trong nhiều thế kỷ sau nầy. Vào thời điểm đồi núi sông Bung còn là vùng biển, vùng Ngũ Hành Sơn cũng như Sơn Trà, những hòn núi cuối cùng của Trường Sơn Bắc, là những hòn đảo nằm chơ vơ giữa vùng biển khơi.
Những ngôi chùa ở Ngũ Hành Sơn
Trong quá trình hình thành đồng bằng Quảng Nam, các hòn đảo đó dần dần được nối vào đất liền, như người xưa thường nói: "Phù nhất thiên niên tiền Ngũ Hành nhất đảo; nhất thiên niên hậu vị Ngũ Hành Sơn" (Một nghìn năm trước Ngũ Hành là hải đảo; một nghìn năm sau là Ngũ Hành Sơn).
Nhưng Ngũ Hành Sơn cũng chỉ mới được nối vào đất liền, vì hiện nay, ở ngoài sông Trường Giang, một con sông chảy dài theo ven biển Quảng Nam, nối liền sông Thu Bồn với sông Tam Kỳ. Giữa Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam có nhiều khác biệt rõ rệt. Chẳng hạn, có thể nói hai bên đèo Hải Vân là hại "bầu trời" khác hẳn nhau. Có những ngày, đứng ngay trên đèo Hải Vân nhìn về phía Thừa Thiên - Huế thì mưa mù đầy trời, nhưng quay về hướng Nam, vùng Quảng Nam - Đà nẵng, khí lạnh mây mù đã không còn nữa, cảnh vật rực rỡ dưới bầu trời xanh ngắt, trải rộng trên vịnh Hàn và thành phố Đà Nẵng.
Thủy Sơn là hòn núi nằm về phía bắc trong Ngũ Hành Sơn, ở vị trí đầu tiên trên con đường chạy từ Đà Nẵng đến Hội An. Trong dãy này, đây là hòn núi lớn nhất và đẹp nhất, thường được du khách đến viếng thăm quanh năm.Thủy sơn nằm trên môt dải đất hình thuẩn, theo hướng đông - tây, rộng khoảng 15 mẫu tây. Đỉnh núi có ba ngọn nằm ở ba tầng, trống giống như ba ngôi sao Tam Thai ở chuôi chòm sao Đại Hùng Tinh, cho nên, thường được gọi tên là núi Tam Thai. Ngọn cao nhất trong hệ thống nầy là 106 mét ở phía tây bắc, gọi là Thượng Thai; ngọn phía nam thấp nhất gọi là Trung Thai; ngọn phía đông ngô cao hơn một chút gọi là Hạ Thai.Trong vùng Thủy Sơn có nhiều chùa chiền và hang động, có thể phân chia ra làm 3 cụm, theo ba ngọn núi nầy: Cụm Thượng Thai phía tây bắc có Vọng Giang Đài, tháp Phổ Đồng, chùa Từ Tâm, chùa Tam Tôn, chùa Tam Thai, hành Cung, động Hoa Nghiêm, động Huyền Không, động Linh Nham và động Lăng Hư. Cụm Trung Thai nằm ở giữa, có hai cổng Động Thiên Phước Địa và Vân Căn Nguyệt Quật, các động Vân Thông, động Thiên Long và hang sáng vân Nguyệt. Cụm Hạ Thai ở phía đông có Vọng Hải Đài, chùa Linh Ứng, động Tàng Chân (với các động Tam Thanh, động Chiêm Thành, hang Ráy, hang Gió, động Bàn Cờ, chùa Linh Ứng, động Chơn Tiên), động Ngũ Cốc và phía dưới núi Giếng Tiên và động Âm Phủ.
Lên thăm chùa chiền hang động Thủy Sơn, có thể men theo hai đường sau đây: đường cấp phía tây nam: dẫn đến chùa Tam Thai có 156 bậc; đường cấp phía đông: dẫn đến chùa Linh Ứng, có 108 bậc. Thông thường, du khách đi lên theo đường cấp phía tây nam, đi xuống lại theo đường hướng đông để có thể thăm toàn bộ cảnh quan toàn vùng nầy. Đường cấp phía tây nam là con đường ven theo vách núi, lát bằng đá Trà Kiệu hoặc La Vân, rộng khoảng 4 mét, hai bên có lan cao cao khoảng 60 cm. Các bậc đá ở đây tương đối cao, bước lên khó, cho nên từng quãng có những chỗ cho khách nghỉ chân. Nhưng qua khỏi hẻm núi vách thẳng đứng như thành vại ở gần cuối đường, thì mọi mỏi mệt đều tiêu tan, vì trước mặt mọi người là một quanh cảnh kỳ thú, nhiều chùa chiền và nhiều hang động. Quảng nửa đường cấp, có những trụ đá to, chạy chỉ vuông, chuốt hình hoa sen, là biểu hiện cửa ngoài của chùa Tam Thai.
Những lên khỏi đường cấp, truớc khi vào chùa Tam Thai, du khách có thể đến thăm chùa Từ Tâm, chùa Tam Tôn và Vọng Giang Đài. Vọng Giang Đài là môt điểm cao trước ngôi chùa Tam Thai, nằm về phía bên phải. Tại đây có một tấm bia bằng đá Trà Kiệu, chiều cao 2 mét, chiều rộng 1 mét, dựng lên trên môt đế xây lớn. Trên mặt bia có khắc "Vọng Giang Đài" bằng chữ Hán; bên cạnh có dòng chữ nhỏ, ghi ngày tháng xây bia này "Minh Mạng thập bát niên, thất nguyệt, cát nhật".
Du khách đứng trước Vọng Giang Đài, có thể nhìn bao quát được cả môt vùng đồng bằng bao la của vùng Quảng Nam - Đà nẵng,con sông Trường Giang, sông Cẩm Lệ.
Tháp Phổ Đồng là một cái tháp xây bằng đá có tường bao chung quanh; Nơi đây, ngày trước tập trung hài cốt của những ngườichết rải rác trong núi. Chùa Từ Tâm là nơi thờ vọng vong linh của họ; chùa Tam Tôn là môt ngôi chùa mới xây dựng về sau này.
Động Hoa Nghiêm: Động này nằm ở phía ngoài chùa, không cao lắm, được xem như tiền sảnh của chùa Huyền Không. Trong động này, có tấm bia cổ khắc ba chữ "Phổ Sơn Đà". Trong môt hốc đá có tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát, chiều cao lên gần đến vòm, hướng mặt về phía cửa động. Nét điêu khắc của chạm hài hoà tự nhiên, tưởng chừng như những thạch nhũ tạo nên. Vào năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), được đổi tên thành động Trang Nghiêm.
Động Huyền Không: Bên phía trái của động Hoa Nghiêm là cửa đi vào động Huyền Không. Khi mới đi vào, cửa động tối tăm, tuy nhiên khi đã đi thêm khoảng mươi mét, động mở ra rộng rãi, thênh thang. Động Huyền Không là một hang động lộ thiên, nằm gọn trong núi Huyền Không, ngay trên đỉnh núi nầy. Núi Huyền Không hình tròn, cho nên động là một vòm cao rộng.
Động Linh Nham: Ra khỏi động Huyền Không, trở lại phía sau của Tam Thai, men theo đường cấp bên phía trái về hướng đông bắc sẽ đến động Linh Nham ngay trên đỉnh núi. Chặng đường nầy quanh co, đi lại khó khăn hơn trước. Trên cửa động, có một hòn đá, trông như hòn non bộ nhỏ.Trước khi, trong động này thờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát; ngôi tượng của ngài bị sụp đổ, cho nên về sau thờ Ngọc Hoàng; thành thử động nầy còn có tên là động Ngọc Hoàng.
Động Lăng Hư: Động Lăng Hư nằm ở phía trên của động Linh Nham, nằm ở lưng chừng núi, vách đá cheo leo. Lối vào khó khăn, khi lên trên đỉnh nhìn xuống thì dường như không còn có nẻo trở về nữa.
Hang Vân Nguyệt: Từ phía sau của chùa Tam Thai, đi về hướng đông là khu vực của chùa động vùng Trung Thai. Đến đây, bắt đầu đi vào bằng cổng "Động Thiên Phước Địa" (chỗ trời tiên đài phúc). Hang này rất sáng khó nhận biết, thậm chí có người ở ngay trong động nhưng vẫn không nhận biết được. Hang Vân Nguyệt là một lòng chảo rộng khoảng 100 mét, chiều dài khoảng vài trăm mét, nằm giữa dãy núi Thanh Sơn bên phải, dãy núi có hang Thiên Long bên trái, cổng Động Thiên Phước Địa phía tây và cổng Văn Căn Nguyệt Quật phía đông. Ở nơi đây thường có hiện tượng hơi nước bốc lên như mây khói, lại có ánh trăng dọi vào, thành những vầng sáng lung linh, huyền ảo, nên có tên là Vân Nguyệt.
Động Vân Thông: Ở phía bên phải của hang Vân Nguyệt, trên sườn núi Thanh Sơn là động Vân Thông. Động này nằm gọn trong lòng núi, hình tròn, trông giống như môt đường ống hướng chếch lên phía ngọn núi. Trước cửa hang động có một chiếc đỉnh đồng to xây bằng xi mặng để thờ vọng. Trong động có một tấm bia xưa nhất, khắc ba chữ "Ngũ Uẩn Sơn". Tại trung tâm có môt tượng Phật rất lớn. sau lưng tượng nầy là con đường đi lên động. Mới đi vào, đường khá rộng rãi, nhưng càng đi sâu vào, con đường lại hẹp dần; hướng lên đỉnh núi khó khăn, du khách phải bám vào các tảng đá mới bò lên được. Cuối động là một khoảng tròn, để thông ra bên ngoài. Ánh sáng từ trên động rọi vào, những những hào quang từ trên không trung chiếu xuống. Người ta thường gọi đây là "đường lên trời". Trên đỉnh động có thể đi theo sườn núi Thanh Sơn xuống đến ngã ba đi lên Vọng Hải Đài và chùa Linh Ứng phía ngoài cổng Vân Căn Nguyệt Quật.
Hang Thiên Long: Hang Thiên Long còn gọi là Hang Rồng, nằm bên trái hang Vân Nguyệt, phía gần cổng Vân Căn Nguyệt Quật. Hang này hình tròn, ăn sâu xuống lòng đất, có nhiều tảng đá lởm chởm. Lòng hang sâu thăm thẳm, trông như miệng con rồng cho nên có tên là Hàm Rồng. hang Thiên Long thông với Hang Gió trong động Tàng Chân ở khu Hạ Thai.
Vân Căn Nguyệt Quật: Vân căn có nghĩa là gốc mây; nguyệt quật là hang trăng. Ngụ ý nói: Trăng núp trong gốc mây. Cũng có thể giải thích là: Cội gốc của mây trăng; hay là: Trăng soi thấy chân mây. Du khách bước vào đây như đi vào môt thế giới huyền bí, sau đó chuyển sang vùng trời biển bao la. Bên này Vân Căn Nguyệt Quật là thế giới của nhiều hang động; bên kia là vùng duyên hải, biển trời mênh mông.
Vùng Hạ Thai: Vùng nầy có Vọng Hải Đài, chùa Linh Ứng, động Tàng Chân với 5 động nhỏ (Tam Thanh, Hang Gió, động Chiêm Thành, Hang Ráy, động Bàn Cờ), động Ngũ Cốc, Giếng Tiên, động Âm Phủ.
Vọng Hải Đài: Vọng Hải Đài là điểm cao nằm bên phải chùa Linh Ứng. Đứng tại đây, có thề nhìn bao quát cả một vùng trời biển. Ngoài xa, thấy được rõ cụm đảo Cù Lao Chàm, với những đảo: Lao, Dài, Khô, Lá, Lôi, Tai, Mận. Những đạo nầy thường có loài chim Hải Yến, nên dân chúng thường đến đây khai thác loại hải sản quý nầy.
Chùa Linh Ứng: Chùa Linh Ứng được xây vào khoảng thế kỷ XVI, tương truyền là do một vị Tiên hiền khai sáng làng Khải Đông đến ẩn tu tại động Tàng Chân lập ra ngôi chùa này. Lúc đâu, nơi đây được gọi là Dưỡng Chơn Am; sau đổi là Dưỡng Chơn Đuờng. Đến đời vua Minh Mạng, đã kiến tạo lại để trở thành ngôi chùa, có tên là "Ứng Chơn Tự" do Hoà thượng Quang Chánh đạo hiệu là Bảo Đài trụ trì. Tên Linh Ứng ngày nay được đổi từ đời vua Thành Thái. Hiện nay trong chùa có bộ Thập Bát La Hán rất quý, được tạc công phu bằng đá tại Ngũ Hành Sơn, theo mẫu của chùa Phước Lâm ở thị xã Hội An. Tượng cao 0,34m, ngang gối 0,23m, đế 0,04m. Trải qua gần 4 thế kỷ tồn tại, chùa Linh Ứng bị hư hại nhiều lần và cũng được trùng tu. Gần đây nhất là lần trùng tu năm 1993, Thượng tọa Thích Thiện Nguyện đã ra sức vận động, quyên góp công sức tín hữu, đồng thời cũng đã xây dựng thêm một số công trình khác nữa, có đúc tượng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và tượng đức QuanThế Âm Bồ Tát. Bức phù điêu ghi lại cuộc đời của đức Thích Ca. Điều đáng tiếc là hiện nay, việc khai thác đá tại Ngũ Hành Sơn một cách xô bồ, vô tổ chức, cho nên đã gây những hư hại trầm trọng tại chùa này cũng như nhiều chùa và động khác nữa.
Động Tàng Chân: Đàng sau chùa Linh Ứng là động Tàng Chân. Theo nguyên nghĩa, Tàng Chân là nơi "chứa thiên nhiên chân thật" của vũ trụ. Động cũng là một thung lũng hình chữ nhật, chiều dài khoảng 10m, chiều ngang khoảng 7m. Ánh sáng mặt trời thường chiếu thẳng vào. Đàng truớc có một cổng cấu tạo theo hình thể tự nhiên bằng đá, tiếp đến là một hành lang ngắn. Trên vách đá, phía bên phải có khắc "Tàng Chân Động". Phía sau hành lang là chiếc cổng thứ 2, tiếp đến cũng là động. Từ cuối động Tàng Chân, trông vào có 3 hốc đá, có cấp đi lên xuống; đó là những động: Tam Thanh, Chiêm Thành và Hang Gió. Động TamThanh khá dài và hình tròn, ngày trước thờ Thượng Thanh, Trung Thanh và Hạ Thanh (nên có tên Tam Thanh). Động Chiêm Thành ở giữa, còn có tên là hang Hời, có thờ thần Vichnu. Động này hình bán nguyệt, khá sâu và dài. Hang Gió hình bán nguyệt, đá long lanh đủ sắc màu. Gió tứ phía thổi vào mát rượi nên có tên này. Nơi đây, phía trên thì thông lên đỉnh bằng nhiều lỗ trống, phía dưới thì thông với hang Thiên Long.
Ngay dưới chân ngọn Kim Sơn có một hang động dài hơn 50m, rộng gần 10m, cao khoảng 10 - 15m. Lối vào động là những bậc đá tự nhiên, bên trong là những lớp thạch nhũ bám vào vách núi tạo thành hình tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao bằng người thật rất thanh tú. Tượng thạch nhũ này còn sinh động hơn nhờ một lớp nhũ đá lấp lánh như dải kim tuyến phủ từ bờ vai đến gót chân tượng. Dưới chân tượng là một con rồng đang cuộn mình giữa những làn sóng.
Đặc biệt, phía sau Bồ Tát còn có một hình tượng nhỏ hơn trông như Thiện Tài đồng tử và bên trái là hình chim Khổng Tước, hai cánh xoè rộng toả khắp trần động. Có thể nói đây là bức phù điêu tuyệt mỹ mà thiên nhiên đã ban cho Kim Sơn. Sau khi phát hiện ra động (1950), hoà thượng Thích Pháp Nhãn đã cho mở rộng lối vào động và xây dựng chùa Quán Thế Âm. Chùa dựa lưng vào ngọn Kim Sơn, ngoảnh mặt ra khúc sông đầy hoa sen thơm ngát. Hàng năm vào mùa lễ hội đầu xuân (19/2 âm lịch), chùa mở hội lấy tên là Hội Quán Âm.
Đặc biệt, phía sau Bồ Tát còn có một hình tượng nhỏ hơn trông như Thiện Tài đồng tử và bên trái là hình chim Khổng Tước, hai cánh xoè rộng toả khắp trần động. Có thể nói đây là bức phù điêu tuyệt mỹ mà thiên nhiên đã ban cho Kim Sơn. Sau khi phát hiện ra động (1950), hoà thượng Thích Pháp Nhãn đã cho mở rộng lối vào động và xây dựng chùa Quán Thế Âm. Chùa dựa lưng vào ngọn Kim Sơn, ngoảnh mặt ra khúc sông đầy hoa sen thơm ngát. Hàng năm vào mùa lễ hội đầu xuân (19/2 âm lịch), chùa mở hội lấy tên là Hội Quán Âm.
Thổ Sơn là ngọn núi nằm ở phía bắc hòn Kim Sơn và phía tây hòn Thủy Sơn. Đây là ngọn núi đất, thấp nhất nhưng cũng dài nhất, trông như một con rồng nằm dài trên bãi cát. Phía tây Thổ Sơn là đoạn sông Ba Chà. Núi có hai tầng, lô nhô những khối đá trên đỉnh, nhất là ở sườn phía đông. Sườn phía bắc dốc hơn, có những vách đá dựng đứng, hẹp và thấp. Thân núi có một lớp cỏ mỏng bao phủ để lộ nhiều chỗ màu đất sét đỏ có nhiều gạch cổ thời Chiêm Thành.
Trong núi có một cái hang cửa quay về phía tây nam, ăn sâu vào trong núi có tên là hang Cóc hoặc hang Bồ Đề. Ngách vào hang rất hẹp, chỉ đủ một người lách qua. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân địa phương đã coi hang Bồ Đề như là một địa đạo thiên nhiên, một địa điểm chống càn, bảo đảm an toàn trong mọi tình huống.
Trên vách đá bên cạnh ngôi chùa có một khối đá lớn cao chừng 30m có hình dáng gần giống hình tượng Phật Di Lặc. Theo Phật giáo thì Phật Di Lặc là Phật Vị Lai thuyết pháp tại hội Long Hoa nên chùa lấy tên là chùa Long Hoa. Chùa thờ Phật Di Lặc ở trước, phía sau cao hơn là Phật Thích Ca, hai bên là Bồ tát Quán Thế Âm và Địa Tạng. Trụ trì chùa hiện nay là Thượng tọa Thích Huệ Thường.
GIỚI THIỆU VỀ NGŨ HÀNH SƠN
Ngũ Hành Sơn thuộc phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 7km về phía đông nam.
Đặc điểm:
Ngũ Hành Sơn nằm trên một dải cát vàng chiều dài khoảng 2km, rộng khoảng 800m.
Ngũ Hành Sơn không cao, sườn núi dốc đứng cheo leo, cây cỏ lơ thơ. Đá ở Ngũ Hành Sơn là loại đá cẩm thạch có nhiều màu: sáng đục, trắng sữa, hồng phấn, xám vân đỏ, nâu đen, xanh đậm..., không cứng lắm và là chất liệu rất tốt cho tạc tượng và đồ mỹ nghệ trang trí.
Có nhiều truyền thuyết về sự hình thành Ngũ Hành Sơn, trong đó có truyện kể rằng: “Ngày xưa, nơi đây là một vùng biển hoang vu, chỉ có một ông già sống đơn độc trong một túp lều tranh. Một hôm, trời đang sáng bỗng nhiên tối sầm, giông bão nổi lên, một con giao long rất lớn xuất hiện vùng vẫy trên bãi cát và một quả trứng khổng lồ từ từ lăn ra ở dưới bụng. Sau đó giao long quay ra biển đi mất. Lát sau, một con rùa vàng xuất hiện, tự xưng là thần Kim Quy, đào cát vùi quả trứng xuống và giao cho ông già nhiệm vụ bảo vệ giọt máu của Long Quân. Quả trứng càng ngày càng lớn, nhô lên cao chiếm cả một vùng đất rộng lớn. Vỏ trứng ánh lên đủ mầu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng, tím lấp lánh như một hòn gạch khổng lồ.
Một hôm, ông lão vừa chợp mắt thì nghe có tiếng lửa cháy, ông cầu cứu móng rùa - vật mà thần Kim Quy đã giao lại cho ông lúc ra đi và trong lòng trứng xuất hiện một cái hang rộng rãi, mát mẻ. Ông đặt lưng xuống ngủ thiếp luôn và không biết đang xẩy ra một phép lạ: một cô gái xinh xắn bước ra từ trong trứng và nơi ông nằm là một trong năm hòn đá cẩm thạch vừa được hình thành từ năm mảnh vỏ của quả trứng...”.
Ngũ Hành Sơn gồm có 5 ngọn: Thuỷ Sơn và Mộc Sơn ở phía đông, Thổ Sơn, Kim Sơn, Hoả Sơn ở phía tây. Trong tư duy triết học của Trung Hoa thì ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là những yếu tố cấu thành vũ trụ. Con số 5 là con số cực kỳ quan trọng trong tư duy và trong đời sống phương Đông vì vậy 5 ngọn Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn tự trong mình nó đã hàm chứa những vẻ kỳ bí dị thường.
Kim Sơn
Ngọn Kim Sơn nằm ở phía đông nam, bên bờ sông Cổ Cò. Đi thuyền trên sông, du khách có thể ngắm bóng núi, bóng chùa in trên mặt nước phẳng lặng. Tại đây xưa có Bến Ngự, nơi thuyền Vua cập bến mỗi khi du hành Ngũ Hành Sơn. Nay bến xưa không còn nhưng cạnh chùa Quan Âm người ta vừa tìm thấy một cột lim neo thuyền ngày xưa.
Ngay dưới chân ngọn Kim Sơn có một hang động dài hơn 50m, rộng gần 10m, cao khoảng 10 - 15m. Lối vào động là những bậc đá tự nhiên, bên trong là những lớp thạch nhũ bám vào vách núi tạo thành hình tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao bằng người thật rất thanh tú. Tượng thạch nhũ này còn sinh động hơn nhờ một lớp nhũ đá lấp lánh như dải kim tuyến phủ từ bờ vai đến gót chân tượng. Dưới chân tượng là một con rồng đang cuộn mình giữa những làn sóng.
Đặc biệt, phía sau Bồ Tát còn có một hình tượng nhỏ hơn trông như Thiện Tài đồng tử và bên trái là hình chim Khổng Tước, hai cánh xoè rộng toả khắp trần động. Có thể nói đây là bức phù điêu tuyệt mỹ mà thiên nhiên đã ban cho Kim Sơn. Sau khi phát hiện ra động (1950), hoà thượng Thích Pháp Nhãn đã cho mở rộng lối vào động và xây dựng chùa Quán Thế Âm. Chùa dựa lưng vào ngọn Kim Sơn, ngoảnh mặt ra khúc sông đầy hoa sen thơm ngát. Hàng năm vào mùa lễ hội đầu xuân (19/2 âm lịch), chùa mở hội lấy tên là Hội Quán Âm.
Mộc Sơn
Mộc Sơn nằm ở phía đông, sát biển, gần hòn Thuỷ Sơn. Phía đông và nam là động cát, phía bắc là ruộng và phía tây là xóm làng. Tuy thuộc hành Mộc nhưng tại đây lại rất ít cây cối. Đỉnh núi đá bị xẻ thành những răng cưa giống như cái mồng gà trống nên có thể vì vậy mà còn có tên núi Mồng Gà.
Trên hòn núi này không có chùa chiền, chỉ có một khối đá cẩm thạch màu trắng trông tựa người đang ngồi. Người địa phương gọi là Cô Mụ hay Bà Quan Âm. Dưới chóp núi 10m có một kẻ đá rộng chạy ngang phía nam.Trong núi có một động nhỏ, tương truyền ngày xưa có một người đàn bà tên là Trung tu ở đó nên có tên là động Bà Trung. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cán bộ và nhân dân địa phương thường vào đây để tránh máy bay địch.
Thủy Sơn
Thuỷ Sơn nằm trên một dải đất rộng chừng 15ha và là ngọn cao nhất trong Ngũ Hành Sơn. Đỉnh núi có 3 ngọn nằm ở 3 tầng, giống 3 ngôi sao Tam Thai ở đuôi chòm Đại Hùng tinh nên còn có tên là núi Tam Thai.
Ngọn cao nhất ở phía tây bắc gọi là Thượng Thai, ngọn phía nam thấp hơn gọi là Trung Thai và ngọn phía đông thấp nhất gọi là Hạ
Ở ngọn Trung Thai có hai cổng động Thiên Phước Địa, Văn Căn Nguyệt và các động Vân Thông, Thiên Long, hang Vân Nguyệt. Ngọn Hạ Thai có Vọng Hải Đài, chùa Linh Ứng, động Ngũ Cốc, Tàng Chân còn phía dưới núi là Giếng Tiên và động Âm Phủ.
Lên thăm chùa chiền và hang động Thuỷ Sơn, du khách có thể đi bằng hai đường: đường tam cấp phía tây nam dẫn lên chùa Tam Thai có 156 bậc hoặc tam cấp phía đông dẫn đến chùa Linh Ứng có 108 bậc. Leo đến khoảng giữa đường tam cấp phía tây, quý khách sẽ gặp cổng ngoài của chùa Tam Thai nhưng hãy khoan vào chùa ngay mà nên rẽ trái, vòng hướng chùa Từ Tâm, chùa Tam Tâm và Phổ Đồng ra thăm Vọng Giang Đài chếch về phía phải chùa Tam Thai.
Ở đây có một tấm bia bằng đá Trà Kiệu rộng 1m, cao 2m dựng trên một nền đế rộng. Trên mặt bia khắc 3 chữ Hán lớn “Vọng Giang Đài” (Đài ngắm sông) và một dòng chữ nhỏ ghi ngày tháng năm dựng bia “Minh Mạng thập bát niên thất nguyệt cát nhật” (Năm Minh Mạng thứ 18, tháng 7, ngày tốt). Đứng ở đây có thể nhìn thấy bao quát cả một vùng đồng ruộng mênh mông của Đà Nẵng, QuảngNam và các con sông Trường Giang, Cẩm Lệ bao quanh. Lên đến chùa Tam Thai là du khách đã đến với một di tích quốc gia và cũng là di tích Phật giáo.
Theo sử liệu, chùa được xây dựng cách đây ít nhất 300 năm. Năm 1825, Minh Mạng trong chuyến tuần du Ngũ Hành Sơn đã cho xây lại chùa Tam Thai và đến năm 1927 đã cho đúc 9 tượng và 3 chuông lớn. Vòng ra sau lưng chùa Tam Thai theo một con đường đất, du khách sẽ gặp một cổng vôi cổ kính không biết xây từ bao giờ, trên có 3 chữ Hán “Huyền Không Quan”. Đây là cửa vào động Hoả Nghiêm và động Huyền Không.
Ở đây có một tấm bia bằng đá Trà Kiệu rộng 1m, cao 2m dựng trên một nền đế rộng. Trên mặt bia khắc 3 chữ Hán lớn “Vọng Giang Đài” (Đài ngắm sông) và một dòng chữ nhỏ ghi ngày tháng năm dựng bia “Minh Mạng thập bát niên thất nguyệt cát nhật” (Năm Minh Mạng thứ 18, tháng 7, ngày tốt). Đứng ở đây có thể nhìn thấy bao quát cả một vùng đồng ruộng mênh mông của Đà Nẵng, Quảng
Theo sử liệu, chùa được xây dựng cách đây ít nhất 300 năm. Năm 1825, Minh Mạng trong chuyến tuần du Ngũ Hành Sơn đã cho xây lại chùa Tam Thai và đến năm 1927 đã cho đúc 9 tượng và 3 chuông lớn. Vòng ra sau lưng chùa Tam Thai theo một con đường đất, du khách sẽ gặp một cổng vôi cổ kính không biết xây từ bao giờ, trên có 3 chữ Hán “Huyền Không Quan”. Đây là cửa vào động Hoả Nghiêm và động Huyền Không.
Trong động Huyền Không có đường dẫn sâu xuống lòng đất. Lần mò trong bóng tối khoảng 10m trước mặt bỗng bừng lên một khoảng không gian rộng, cao vời vợi, ánh sáng mờ ảo, êm dịu. Động Huyền Không là hang lộ thiên nằm gọn trong lòng núi. Núi hình tròn nên mái động cũng hình vòm, nền bằng phẳng, không có măng đá và nhũ đá, trên vòm có 5 lỗ lớn nhỏ có thể trông thấy bầu trời bên ngoài. Vách động có bọt đá tạo nên những hình thù kỳ thú.
Từ sau chùa Tam Thai, du khách đi về phía đông sẽ gặp cụm hang động Trung Thai. Cụm này có động Thiên Phước Địa, hang Vân Nguyệt và động Vân Thông. Động Vân Thông nằm gọn trong lòng núi, hình tròn như đường ống chếch lên phía ngọn núi. Trong động có một tấm bia cổ, khắc 3 chữ “Ngũ Uẩn Sơn”, giữa động có một tượng Phật rất lớn. Sau lưng tượng là đường đi lên động, càng vào sâu càng hẹp và hướng lên đỉnh núi, phải bám vào các tảng đá mới bò lên được. Cuối động là miệng thông ra ngoài to bằng cái nong (đường kính khoảng hơn 1m). Ánh sáng từ đỉnh dọi vào trong động tạo ánh hào quang rực rỡ. Đứng trên đỉnh động có thể bao quát cả một vùng đồng ruộng, sông biển, xóm làng.
Cụm chùa chiền hang động Hạ Thai gồm có Vọng Hải Đài, chùa Linh Ứng, động Tàng Chân, động Ngũ Cốc, động Âm Phủ, Giếng Tiên. Vọng Hải Đài là điểm cao bên phải chùa Linh Ứng. Đứng ở đây du khách có thể phóng tầm mắt ra một vùng trời biển bao la với các hoạt động nhộn nhịp của ghe thuyền trên biển. Ở đây cũng có một tấm bia bằng đá Trà Kiệu, kích thước như ở Vọng Giang Đài, dựng vào năm Minh Mạng thứ 18 (1837).
Chùa Linh Ứng ở ngọn Hạ Thai cũng là ngôi chùa có giá trị lịch sử cao, được xem là quốc tự và di tích Phật Giáo. Từ tam quan chùa Linh Ứng có đường đi xuống núi, rẽ phải sẽ gặp động Âm Phủ. Động cao, rộng, hình tròn sâu thẳm. Đường hang quay về phía tây, vách lởm chởm đá, ẩm ướt, mát lạnh. Xuống khoảng 30m ta sẽ gặp một hầm cao, ánh sáng vẫn lọt qua khe đá dọi vào. Lần qua những cột đá lớn ta sẽ gặp một hang hẹp, lách qua ngách hầm còn có một vòm cao, một giếng sâu thông xuống lòng đất.
Chùa Linh Ứng ở ngọn Hạ Thai cũng là ngôi chùa có giá trị lịch sử cao, được xem là quốc tự và di tích Phật Giáo. Từ tam quan chùa Linh Ứng có đường đi xuống núi, rẽ phải sẽ gặp động Âm Phủ. Động cao, rộng, hình tròn sâu thẳm. Đường hang quay về phía tây, vách lởm chởm đá, ẩm ướt, mát lạnh. Xuống khoảng 30m ta sẽ gặp một hầm cao, ánh sáng vẫn lọt qua khe đá dọi vào. Lần qua những cột đá lớn ta sẽ gặp một hang hẹp, lách qua ngách hầm còn có một vòm cao, một giếng sâu thông xuống lòng đất.
Hỏa Sơn
Hoả Sơn gồm 2 ngọn và một đường đá nhô lên nối liền chúng với nhau. Ngọn phía tây gần Kim Sơn là Dương Hoả Sơn, nằm trên bờ sông Cổ Cò. Ngày xưa, khi Đà Nẵng và Hội An còn giao lưu bằng đường thuỷ, ở đây có một ngã ba sông, ghe thuyền qua lại vô cùng tấp nập.
Trên sườn núi phía tây, mặt hướng về phía bắc, đối diện với Kim Sơn có 3 chữ Hán rất to được khắc vào vách đá “Dương Hoả Sơn”. Trong núi Dương Hoả Sơn có các hang và chùa Phổ Sơn Đà. Còn ngọn ở phía đông, gần đường đi Hội An là Âm Hoả Sơn với chóp núi nhô cao, sườn núi có nhiều thớ đá nằm nghiêng và chạy ngang tạo thành lát cắt, mỏm núi phía đông có một hang đá thông từ sườn phía nam ra sườn phía bắc. Cây cối mọc xen dày ở các kẽ đá.
Trên sườn núi phía tây, mặt hướng về phía bắc, đối diện với Kim Sơn có 3 chữ Hán rất to được khắc vào vách đá “Dương Hoả Sơn”. Trong núi Dương Hoả Sơn có các hang và chùa Phổ Sơn Đà. Còn ngọn ở phía đông, gần đường đi Hội An là Âm Hoả Sơn với chóp núi nhô cao, sườn núi có nhiều thớ đá nằm nghiêng và chạy ngang tạo thành lát cắt, mỏm núi phía đông có một hang đá thông từ sườn phía nam ra sườn phía bắc. Cây cối mọc xen dày ở các kẽ đá.
Thổ Sơn
Thổ Sơn là ngọn núi nằm ở phía bắc hòn Kim Sơn và phía tây hòn Thủy Sơn. Đây là ngọn núi đất, thấp nhất nhưng cũng dài nhất, trông như một con rồng nằm dài trên bãi cát. Phía tây Thổ Sơn là đoạn sông Ba Chà. Núi có hai tầng, lô nhô những khối đá trên đỉnh, nhất là ở sườn phía đông. Sườn phía bắc dốc hơn, có những vách đá dựng đứng, hẹp và thấp. Thân núi có một lớp cỏ mỏng bao phủ để lộ nhiều chỗ màu đất sét đỏ có nhiều gạch cổ thời Chiêm Thành.
Trong núi có một cái hang cửa quay về phía tây nam, ăn sâu vào trong núi có tên là hang Cóc hoặc hang Bồ Đề. Ngách vào hang rất hẹp, chỉ đủ một người lách qua. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân địa phương đã coi hang Bồ Đề như là một địa đạo thiên nhiên, một địa điểm chống càn, bảo đảm an toàn trong mọi tình huống.
Trên vách đá bên cạnh ngôi chùa có một khối đá lớn cao chừng 30m có hình dáng gần giống hình tượng Phật Di Lặc. Theo Phật giáo thì Phật Di Lặc là Phật Vị Lai thuyết pháp tại hội Long Hoa nên chùa lấy tên là chùa Long Hoa. Chùa thờ Phật Di Lặc ở trước, phía sau cao hơn là Phật Thích Ca, hai bên là Bồ tát Quán Thế Âm và Địa Tạng. Trụ trì chùa hiện nay là Thượng tọa Thích Huệ Thường.
Ngũ Hành Sơn được ví như hòn non bộ khổng lồ giữa lòng thành phố Đà Nẵng, không những là biểu tượng văn hoá trong tâm thức của mỗi người con quê hương Đà Nẵng mà còn là điểm đến hấp dẫn của du lịch Miền Trung - con đường di sản.
Nhận xét
Đăng nhận xét